Chế độ đảng toàn trị thăng trầm: tha hóa quyền lực và suy vong (phần 3)
Bình luận của Huỳnh Trần
2024.05.14
RFA
Người dự một hội chợ việc làm tại Trịnh Châu, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc hôm 19/2/2024 (minh họa)AFP
(III) Phương Tây ‘tỉnh ngộ’, cuộc thương chiến thêm căng thẳng bởi đối đầu ý thức hệ
Như đã biết, ngay sau sự kiện bức tường Béc Linh năm 1989 nhà nghiên cứu khoa học chính trị Fransis Fukuyama (1953-) đã tuyên bố về “sự cáo chung lịch sử”. Khi cho rằng chế độ dân chủ sẽ là hình thức xã hội cuối cùng của lịch sử nhân loại. Ông đã không nhận thấy mô hình Đảng toàn trị mới đã ‘thai nghén’ ở Trung Quốc từ 1978, bởi vậy lập luận của Fukuyama, cho đến nay, vẫn bị phê bình[1] là ‘vội vàng’ và thiếu cơ sở thực tế. Việc dự đoán các vấn đề của con người luôn không đơn giản. Hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã và, mỗi quốc gia thành viên tìm sự tồn tại riêng của mình. Phần lớn các nước XHCN Đông Âu chuyển đổi sang chế độ dân chủ, nhưng Liên bang Nga đã dần bị sau đó chủ nghĩa dân tộc đại quốc lấn át… Trong bối cảnh quốc tế như vậy, mô hình toàn trị Trung Quốc “trỗi dậy”…
Trong câu chuyện “Thế giới phẳng”[2] mà Thomas Friedman kể, việc các nhà đầu tư tư bản nước ngoài trực tiếp và gián tiếp kinh doanh, được ví như những con thú sừng dài sừng ngắn kiếm ăn, tìm kiếm lợi nhuận có thể khiến cho các mô hình xã hội, chính trị và xã hội đã bị thay đổi và thế giới trở nên phẳng hơn bao giờ hết khi sự tiếp xúc giữa các cá nhân trở nên dễ dàng và chặt chẽ hơn trước. Nghĩa là toàn cầu hoá khiến các quốc gia bất kể khác biệt về chế độ chính trị đều cùng trên cùng một quỹ đạo phát triển và, khi nỗ lực ‘thoát’ mô hình Liên – Xô, Trung Quốc và Việt Nam đã bắt đầu muộn hơn so với Nhật, Hàn Quốc, Malaysia và các nền kinh tế châu Á khác.
Không chỉ các nhà nghiên cứu và quan sát mà ngay cả cựu Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton, trong một bài phát biểu vào năm 2000, từng tuyên bố: "Bằng cách gia nhập WTO, Trung Quốc không chỉ đơn giản là đồng ý nhập khẩu nhiều sản phẩm của chúng ta, mà còn đồng ý nhập khẩu một trong những giá trị ấp ủ nhất của nền dân chủ: tự do kinh tế. Khi các cá nhân có sức mạnh... để thực hiện ước mơ của họ, họ sẽ yêu cầu một tiếng nói lớn hơn."
Ngoài ra, một số nhà đầu tư tại Trung Quốc cũng ‘cổ vũ’ cho kiểu mô hình phát triển này khi ‘bỏ qua’ sự khác biệt về chế độ chính trị. Raymond Dalio[3], người sáng lập một quỹ đầu tư mạo hiểm lớn và làm ăn thành công tại Trung Quốc, năm 2017 đã xuất bản một cuốn sách bán chạy nhất (bestseller) theo New York Times, có tên “Nguyên tắc ứng phó với trật tự thế giới đang thay đổi” (tiếng Anh: Principles for Dealing with the Changing World Order). Ông nhận định rằng, Trung Quốc đã thành công theo "những cách đặc biệt" mà “không phân biệt hệ tư tưởng, dù đó là chế độ chuyên chế hay dân chủ” và mô tả chính phủ Trung Quốc như bậc "cha mẹ nghiêm ngặt" khi hạ thấp và phủ nhận các vi phạm nhân quyền… Khái quát sự thăng trầm của các đế quốc theo chu kỳ gồm ba giai đoạn chủ yếu: trỗi dậy, đỉnh cao và thoái trào, Ray Dalio cho rằng, trong thời hiện đại Hà Lan đã bị Anh quốc đánh bại, đến lượt mình Vương quốc Anh bị Hoa Kỳ vượt qua, Liên Xô chỉ tồn tại hơn 70 năm và, lưu ý về “mối lo ngại” Trung Quốc đang “trỗi dậy” cạnh tranh với Mỹ đang “thoái trào.”
Tuy nhiên, các ý kiến nêu trên đang đối diện với thực tế Trung Quốc đang ở giai đoạn “thoái trào” như đã nêu trong phần trước. Hơn thế, phương Tây đã ‘tỉnh ngộ’ sau những điều “ngộ nhận” về Trung Quốc và, cuộc thương chiến Mỹ - Trung ngày càng căng thẳng, thế giới dần phân mảnh (decoupling) thành hai khối trục cơ bản và các nước thứ ba như thời chiến tranh lạnh 1.0 (1945-1990), nhưng thực dụng thay vì ý thức hệ. Những “ngộ nhận” được cho là bắt nguồn từ ba niềm tin[4] về cơ bản về Trung Quốc hiện đại: Một là, kinh tế và dân chủ là hai mặt của cùng một đồng tiền; Hai là, các chế độ đảng toàn trị không thể là hợp pháp; Và, ba là, người dân trong chế độ này sống, làm việc và kinh doanh như người phương Tây. Những “ngộ nhận” này phản ánh những lỗ hổng trong kiến thức của họ về lịch sử, văn hóa, con người và thể chế chính trị của chế độ Đảng toàn trị. Việc họ ‘tỉnh ngộ’ khi cho những niềm tin trên là “sai lầm” và, điều đó có ý nghĩa không chỉ đối với các nhà đầu tư tại đây mà còn đối với các quốc gia khi phân biệt nhau là đối tác hay đối thủ. Do khác biệt về triết lý Trung hoa và phương Tây[5] ba “ngộ nhận” nêu trên được trình bày dưới đây.
Trước hết, giới cầm quyền chỉ quan tâm đến kết quả kinh tế vì tính chính danh của chế độ, họ sẽ chào đón các doanh nghiệp và nhà đầu tư nước ngoài và, miễn là họ giúp mang lại tăng trưởng kinh tế, sẽ coi họ là đối tác bình đẳng. Điều này quan trọng đối với giới lãnh đạo chế độ, hơn thế với bản chất toàn trị họ sẽ không thay đổi quan điểm và đặt an ninh chế độ lên trên hết bất kể hiệu quả kinh doanh các đối tác nước ngoài của họ thế nào miễn là không là nguy cơ đối với quyền lực tuyệt đối. Ngoài ra, những thành công kinh tế trong bối cảnh sự suy thoái của nhiều nền dân chủ đã củng cố quan điểm của các nhà lãnh đạo của chế độ toàn trị rằng cải cách thể chế để phát triển kinh tế mà không cần tự do hóa chính trị.
Hai là, các chế độ đảng toàn trị không thể hợp pháp, dưới góc nhìn dân chủ, bởi vì không có bầu cử tự do. Nay phương Tây ‘ngộ ra’ rằng hệ tư tưởng Mác – Lênin quyết định cho sự dẻo dai, tinh vi của chế độ. Trong khi chủ nghĩa Mác được lập luận về mục đích sẽ mang đến cho mọi người một kiểu xã hội tương lai phồn vinh, bình đẳng, bác ái thì chủ nghĩa Lê Nin khẳng định chuyên chế, sử dụng bạo lực là phương tiện đạt mục đích. Chẳng hạn, sở hữu toàn dân hay tập thể là cần thiết để đảm bảo phân phối tài sản công bằng thì cải cách ruộng đất, cải tạo công thương, quốc hữu hoá… sẽ là giải pháp chính sách. Hơn thế, dưới chế độ đảng toàn trị mới kinh tế thị trường, chủ nghĩa tư bản, được coi như phương tiện để thúc đẩy lực lượng sản xuất, là chiến thuật tạm thời thay vì chính sách nhất quán bền vững.
Ba là, như một hệ quả, sản phẩm của cỗ máy, người dân dưới chế độ Đảng toàn trị được tuyên truyền, học tập và, vì vậy nhiều người tin rằng những thành tựu kinh tế của đất nước có được là nhờ sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước và, rằng dân chủ và tăng trưởng không chắc chắn phụ thuộc lẫn nhau. Bởi vậy, sự “ổn định” là quan trọng không chỉ đối với chế độ mà cả người dân. Chế độ biên chế nhà nước vẫn duy trì và việc trở thành công chức nhà nước là may mắn và thăng quan tiến chức là thanh đạt. Ngoài ra, sự trải nghiệm từ thế hệ này qua thế hệ khác đối phó với những rủi ro trước chiến tranh và nỗi sợ hãi từ các cuộc cách mạng bạo lực, đàn áp, cải cách ... đã ‘dạy’ họ, rằng hãy đặt sự an toàn lên hàng đầu thay vì đòi hỏi các quyền tự do dân chủ… Họ chấp nhận chế độ “đảng cử dân bầu” và âm thầm, cam chịu đó là hợp pháp và hiệu quả. Ngoài ra, người dân luôn bị cuốn vào sự giáo huấn chấp hành các quy định về nhân quyền có các giá trị khác với phổ quát, phục tùng và kính yêu lãnh tụ… và. văn hoá truyền thống “tương thân tương ái”… được làm mới bởi chủ nghĩa tập thể…
Mặc dù những xung đột địa chính trị căng thẳng, vũ khí hạt nhân vẫn đe doạ huỷ diệt thế giới và làm gián đoạn chuỗi cung, thương chiến giữa các quốc gia làm suy giảm sự hợp tác “cùng thắng”… nhưng việc cùng tồn tại và phát triển vẫn là xu hướng chủ đạo, trong đó quy luật cạnh tranh chi phối và, hậu quả vẫn là người thắng kẻ thua. Chế độ nào, dân chủ hay Đảng toàn trị, bền bỉ và năng suất hơn sẽ là người thắng trong cuộc cạnh tranh ý thức hệ.
_____________
Tham khảo:
- https://www.theguardian.com/books/2014/mar/21/bring-back-ideology-fukuyama-end-history-25-years-on;
- https://en.wikipedia.org/wiki/The_World_Is_Flat;
- https://en.wikipedia.org/wiki/Ray_Dalio;
- https://hbr.org/2021/05/what-the-west-gets-wrong-about-china;
No comments:
Post a Comment