VNTB – Giấc mộng kinh hoàng (bài 2)Phan Đức Minh
08.07.2025 1:47
VNThoibao

Xem bài 1 tại: VNTB – Giấc mộng kinh hoàng
Bữa nay, anh bạn Đại úy H. bị đau, ói mửa cả đêm, trạm y tế cho nằm nhà, nhưng phải quét dọn vệ sinh trong phòng và chung quanh. Cán bộ bảo: “Đi học tập cải tạo là không được phép đau. Mà nếu đau thì cũng phải cố gắng lao động nhẹ, chớ nằm một chỗ là con người hư hỏng, bết bát rồi chết luôn.”
Nói đến hắn, tôi chợt nhớ đến hai người bạn chí thân hay đi lao động cùng toán với tôi:
– Anh thứ nhất: To con, cao lớn, có lòng giúp đỡ bạn bè. Khi đi nhổ sắn, về gần đến cổng trại, anh thường dúi vào gánh của tôi vài củ sắn, cho… đạt chỉ tiêu. Nếu tôi cho anh ta biết là gánh sắn của mình coi bộ hơi nhẹ ký, mấy tên công an dám… “giảng bài” quá à… Lại nhớ có một hôm anh em đeo ba-lô đi gùi những mảnh sắt thép tại một địa điểm có vài chiếc xe của quân đội miền Nam cũ phá bỏ, nằm ụ đống. Công an cho một nhóm tù có tay nghề tới tháo, cưa kéo thành những mảnh nhỏ rồi cho tù tới nhét vô ba-lô mà… gùi, mà cõng về trại để thợ rèn làm thành những con dao đi làm rừng theo kiểu cán bộ hay thuyết giảng: “Chế độ của ta vô cùng ưu việt, cái gì cũng làm được hết, biến sỏi đá thành cơm…”. Nhiều anh em từng nói với những bạn tù thân thiết “Bố khỉ! Nước đã có sông, công sức đã có tù thì làm cái chi mà chẳng được. Nếu không có tù thì đố chúng bay làm được đó!”. Một bữa đi cõng sắt vụn về trại, dọc đường hắn thấy tôi coi bộ muốn… lè lưỡi quá, hắn bèn ghé sát vào cạnh tôi mà phán: “Coi bộ ngài quan tòa nhà ta sắp sụm bà chè mất rồi. Thôi! Để mình gùi bớt cho một mảnh.”
Nói xong, hắn thò tay vào ba-lô của tôi lôi một miếng sắt ra và nhét vào ba-lô của hắn. Khi nào gần về đến trại, hắn sẽ nhét trả lại vào ba-lô của tôi để cho công an, nếu có cân để kiểm soát thì tôi không đến nỗi thiếu… Tôi đã từng sống trong nhà tù của Tây, đi thanh tra, kiểm soát nhà tù của Việt Nam Cộng Hòa, coi Tivi, sách báo, internet, biết về nhà tù của Mỹ, nhưng chưa bao giờ thấy chế độ nhà tù nào… khốn nạn, ghê gớm, kinh khủng như nhà tù của Vi xi (VC) Việt cộng, nón cối dép râu…
– Anh thứ hai: Một bữa đi nhổ sắn, lúc gánh lên đỉnh đồi, ngồi nghỉ, lấy sức xuống dốc, tìm gói đồ ăn trưa quý hoá gia đình đem cho, buộc ở thắt lưng bằng dây rừng, thì gói đồ ăn đã rơi đâu mất tiêu; Chắc là mất trong khi len lỏi trong rẫy sắn, chặt cây, nhổ gốc, chặt củ, xếp vô quang gánh đầy ụ, gần 50 kí lô, ngày làm 2 chuyến. Bọn chúng tôi ngồi quanh đó phải bóp mồm, bóp miệng, mỗi đứa cho cậu ta miếng khoai, miếng sắn để “cứu nguy dân tộc”. Buồn quá, anh ta bèn hát mấy câu đầu của bài “Quốc Tế Ca” là bài hát hàng đầu số 1, gốc tiếng Nga, dịch ra đủ thứ ngôn ngữ, xài chung cho cả phong trào cộng sản thế giới, đã dịch sang tiếng Việt. Anh hát “Vùng lên! Hỡi các nô lệ ở thế gian! Vùng lên hỡi ai cực khổ bần hàn…” Đói và buồn vì mất gói đồ ăn, anh ta không hát được nữa. Vậy mà tối về trại, công an quản giáo lôi anh ra hỏi tội: (vì có ăng-ten báo cáo)
– “Tại sao anh lại hát như thế?”
– Anh cãi: “Thưa cán bộ, tôi hát bài Quốc Tế Ca là bài ca cách mạng cơ mà!”
– “Nhưng tại sao anh chỉ hát có mấy câu đầu, kêu gọi ai vùng lên, trong lúc anh đang phấn đấu lao động mệt mỏi?”
– “Thì tôi chỉ thuộc có ngần đó câu thôi. Vả lại càng lao động mệt mỏi tôi càng phải phấn đấu. Muốn phấn đấu có hiệu quả, tôi phải hát bài ca của cách mạng.”
– “Anh ngoan cố lắm biết chưa? Bài Quốc Tế Ca, bài ca cách mạng quan trọng mà bạ đâu hát đó, lại chỉ thuộc có mấy câu đầu là thiếu phấn đấu học hỏi.”
Cách nào cũng chết! Ngay chính cái thân tôi, kẻ viết bài này, nếu hát, chắc cũng chỉ thuộc ngần đó mà thôi, thêm tí ti câu đầu bằng tiếng Pháp: “Debout ! Esclaves de la terre…” mà tôi được biết từ hồi đi kháng chiến đánh Tây, làm việc trong ngành tuyên huấn vì có chút ít học vấn và đánh máy chữ thì… chơi luôn 10 ngón tay đàng hoàng, khiến cho tụi dép râu, nón cối… sợ xanh lét mặt mày …
Ấy chết! Đang nói chuyện lên rừng lấy mây! Thằng bạn đau nằm nhà, tôi lên rừng một mình theo hướng đi thường lệ. Bắt đầu tới con suối nhỏ, tôi quan sát thấy mấy đám cát trắng bên bờ giáp bìa rừng, có vô số dấu chân thú rừng, ban đêm mò xuống suối uống nước. Theo kinh nghiệm của dân vùng núi mà tôi học được, thì dấu chân hầu hết là của bầy heo rừng, nhưng cũng có cả dấu chân của “Ông Ba Mươi” tức là Cọp nữa chớ. Tôi hơi ngán, nhưng hoàn cảnh này không ai cho phép ngán cả. Ban ngày Cọp đi đâu mất tiêu, nhưng nếu gặp nó thì bắt buộc tôi phải quay lưng vào gốc cây lớn mà chiến đấu với nó bằng con dao rừng cho đến chết thì thôi. Tôi leo lên núi, đi dọc theo con suối chừng gần cây số (kilometer), ngó lên cao thấy có bóng dáng lá mây quen thuộc. Tôi dừng lại ở điểm đó, không vào sâu nữa, rồi leo ngược dốc đi thẳng lên, lấy tiếng suối róc rách làm chuẩn cho khỏi lạc, thỉnh thoảng vung con dao rừng chặt một mảng vỏ thân cây lớn đánh dấu đường đi, chốc nữa biết đường mà ra.
Càng leo lên núi cao, cây cối càng chằng chịt, nhưng như thế mới dễ có mây. Trời Đất không nỡ hại tôi, một vùng mây chằng chịt hiện ra trước mắt. Mây nằm la liệt dưới mặt đất, mây leo lên tuốt cây cao, toàn mây là mây thôi. Đúng là “Kho Vàng của Hoàng Đế Solomon thời Cổ La Mã rồi!” Tôi mừng hết lớn, bèn ngồi xuống hòn đá to bự để thở cái đã. Bỗng có tiếng sột soạt càng lúc càng rõ ràng ở hướng trước mặt tôi. Chết cha! Thú dữ đuổi theo con mồi nào đó! Tôi núp vào sau một thân cây to bự, dựa lưng vào cây, thủ con dao rừng thật chắc trong tay, sẵn sàng liều mạng. Tôi chợt thoáng nhớ tới câu “Plutôt souffrir que mourir – Thà khổ cực còn hơn là chết” của Victor Hugo, hay La Fontaine chi đó (lâu quá quên mất tiêu rồi, à…của La Fontaine thì phải). Trong bài thơ “La Mort et le bûcheron” – Thần chết và người tiều phu đốn củi ” coi bộ thích hợp trong thời gian này… Bản năng con người lúc này bảo tôi phải sống để hy vọng có ngày trở về với gia đình, vợ con như những người bạn tù khác, hi vọng còn làm được chút chuyện chi chi nữa, chớ chết ở xó rừng một mình thế này… vô duyên, chán bỏ mẹ!… May quá! Con thú dữ đuổi mồi vòng theo hướng khác, xa dần… Tôi ra khỏi chỗ núp, quan sát rồi bắt đầu lấy mây, kẻo không kịp giờ tập họp ở điểm quy định. Với con dao rừng, tôi rút những sợi dây mây nằm ngổn ngang dưới đất, lẫn lộn với lá rừng đã khô, mục nát vì mưa gió, róc bỏ vỏ ngoài, chặt một đoạn dài 10 gang tay cuả tôi, tức là dài 2 mét đó. Đo đạc kiểu tù mãi cũng quen và chính xác đáo để! Cứ kéo rồi róc vỏ và chặt một hồi, vứt mỗi chỗ mươi đoạn, tôi đoán chừng đã được già nửa số ấn định. Đói và mệt quá, tôi tìm một hòn đá ngồi thở ra và lôi mấy miếng sắn luộc lạnh ngắt, thâm sì, trong cái lon gô đen trũi ở trong cái túi xách đeo chéo trên vai, buộc chặt ngang bụng bằng dây rừng, ra ăn. Đi rừng là cái túi phải đeo kiểu đó, vật bất ly thân, nếu không lỡ ra lạc chỗ, không tìm thấy nó thì chỉ có nước chết mà thôi…
Khoai sắn ăn trưa, bi đông nước lạnh là cả cuộc sống của tù cải tạo chúng tôi!
Thấy đã hồi sức, tôi lại rút mây, lấy dao róc vỏ khô và chặt tiếp. Khi kiểm lại thấy đủ số, tôi chặt dây rừng, buộc chặt hai đầu và khúc giữa làm ba bó nhỏ rồi cứ vác từng bó phóng dần xuống phía chân núi, nghe loáng thoáng có tiếng nước suối chảy róc rách, rì rào. Có bó theo dốc trượt xuống ngon lành từng quãng. Có bó mắc dịch, mới trượt được vài mét đã mắc cây, dây leo chằng chịt, nằm quay cu lơ ra đó, làm tôi lại phải tới nơi, lôi lên và phóng xuống. Vừa di chuyển xuống núi, tôi vừa chặt mớ dây rừng, cuốn vòng lại, quàng chéo lên vai để lát nữa xuống chân núi, bờ suối sẽ dùng tới nó.
Con suối đây rồi! Ba bó mây nằm ba chỗ, chênh vênh trên những mỏm đá. Đồng hồ đeo tay đã bị công an tịch thu khi mới vô trại cho nên tôi không đoán rõ được giờ giấc ra sao, chỉ biết… cố gắng phấn đấu di chuyển từ mỏm đá này sang mỏm đá khác, gom ba bó mây lại, cột chung thành một bó to bự, cột chặt hai đầu, thêm vòng dây cột ở khúc giữa cho chắc ăn.
Xong đâu đó, tôi lấy 2 sợi dây rừng lớn hơn, buộc chặt vào vòng dây ở khúc giữa rồi tới vòng dây ở một đầu. Nghỉ một lát lấy sức, tôi thả bó mây bự xuống suối cho dòng nước đẩy đi, tôi chỉ việc giữ cho chắc hai sợi dây rừng để điều chỉnh cho bó mây trôi xuôi theo dòng suối, ra ngoài rừng. Thật là khó khăn, trơn trượt với mấy cái mỏm đá rêu xanh bám đầy, lắm lúc muốn té chết luôn. Có nhiều chỗ tôi phải lội luôn xuống suối, cầm dây hướng dẫn, bó mây mới chịu trôi đi. Nếu không, nó sẽ mắc cứng ở mấy cái chỗ khúc khuỷu, quanh co, lồi lõm những mỏm đá ác ôn, mất dạy.
Mấy miếng sắn luộc thâm sì, lạnh ngắt, chua lè được đưa vào bao tử của tôi hẳn hoi, đàng hoàng mà sao lúc này chúng nó đi đâu mất tiêu. Đói lại hoàn đói, đói muôn năm… Ngó quanh, ngó quẩn chẳng thấy có giống chi ăn được, tôi bẻ đại một chùm trái cây lạ hoắc sà xuống bờ suối, trái to bằng đầu ngón tay. Tôi làm thử một trái rồi nghe ngóng. Làm tiếp trái thứ hai, trái thứ ba…. chẳng chết thằng Tây đen nào cả sau vài ba phút. Tôi dư biết là dù có chết, cũng chưa đủ thời gian để cho cái chết nó tới vì mới có mấy phút thôi, nhằm nhò chi. Cái đói nó xúi tôi: cứ ăn đại, ăn tới đi, đói chịu chi cho nổi, ra khỏi rừng còn phải vác bó mây dài, to tổ bố về trại nữa cơ mà. Thế là tôi làm luôn một bụng chẳng sợ cái chi hết trơn.
Hình như tất cả mọi sự học hành lẩm cẩm của tôi ở nhà trường ngày xửa ngày xưa, chỉ có 2 điều giúp ích cho tôi trong cuộc sống trong các trại tù cải tạo của bọn nón cối, dép râu. Đó là cái “Principe d’Archimède – Nguyên Lý Archimède” của môn học Physique – Vật lý ” ở bậc trung học. Nó chỉ cho tôi biết cách lợi dụng sức nước đẩy lên đối với một vật được thả xuống nước… Do đó, khi di chuyển cây cối làm cột nhà, cả 5-7 cây 1 ngày hay di chuyển một bó mây dài và to bự như thế này, mà cứ vác trên vai, đi suối, đi rừng, rồi hàng chục cây số đường bộ, không nhờ tới nước suối giúp đỡ để nâng lên và đẩy đi, kéo được quãng nào hay quãng đó thì chắc là tôi đã chết quách từ lâu rồi. Điều thứ 2 là cái bài học… “Dilatation des corps – Sự giãn nở của các chất”. Nhờ cái này mà tù chúng tôi, khi làm đường, làm nhà, chỉ bằng chân tay, với con dao, cái rựa, cái búa, cái liềm mà có thể… phá tan những tảng đá to như 1 hay 2 cái xe hơi… của “tư bản, đế quốc”.
Tù chúng tôi chất cây khô chung quanh tảng đá, tìm cách đốt lửa lên. Đốt cho… đã đời ông địa thì tảng đá cũng phải giãn nở ra chớ! Coi bộ được rồi, tù nhà ta lấy thùng gánh nước suối tới, đứng xa xa một tí rồi… hiên ngang, anh dũng hắt vào lửa, vào tảng đá. Thế là đá cứ việc… tự nhiên, thoải mái mà nứt, mà bể ra, kêu đôm đốp! tanh tách! vì đá bị nung nóng nở ra, gặp nước lạnh xối vào, đá co lại làm bể…tùm lum…Tù cứ việc dọn dẹp, gồng gánh cho đến khi tảng đá bự chảng biến mất… Còn đang miên man suy nghĩ vớ vẩn đâu đâu thì thình lình, gặp chỗ dốc, bó mây lao vút xuống, kéo tôi ngã chúi theo luôn… Tá hoả tam tinh, cả con người tôi nằm ngửa, trôi theo bó mây ào ào xuống dốc…
*
Tôi giật mình thức dậy, hai tay quờ quạng chung quanh. Cái giường nệm êm êm, rộng rãi, cái mền ấm áp, chớ không phải sàn tre, sàn nứa, không phải bệ xi-măng của những trại tù cải tạo hơn 12 năm kinh khủng đã đi sâu vào dĩ vãng… Miền Nam sụp đổ, tôi cũng như hàng triệu người khác trong hàng ngũ chống cộng sản đã bị đẩy vào những trại tù cải tạo như thế. Chỉ có kẻ lâu, người mau về hay chết luôn trên rừng trên núi mà thôi. Lâu lâu, tôi lại thấy cái cảnh lao động khổ sai kinh hoàng và cuộc sống thua kém cả súc vật vẫn trở lại với tôi trong những giấc ngủ không mấy ngon lành.
Đã 93 năm (2024) được sống làm người rồi còn chi! Khi thức giấc, thấy mình đã thoát khỏi cảnh sống kinh hoàng ghê gớm đó, thấy mình đang sống trong khung cảnh tự do trên đất Mỹ, một quốc gia hùng cường, vĩ đại kể như số một hoàn vũ ngày nay, không còn bị cảnh đói khát, rét mướt cắt da, mưa nắng dãi dầu, lao động quá sức chịu đựng của con người, không còn bị hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần, hết bị những cặp mắt cú vọ của công an và cả một số bạn bè bị công an tẩy não, hù dọa, biến thành “ăng-ten, do thám” cho cộng sản, theo dõi bám sát ngày đêm. Tôi lại âm thầm cảm tạ Thượng Đế đã cho tôi sống, đã cho tôi có cơ hội dạy học trở lại suốt 5 năm chờ đợi đi định cư ở nước ngoài, không phải tiếp tục lao động khổ sở để kiếm sống như 1 số bạn tù cũ của tôi trong hoàn cảnh tương tự…
Tôi cảm ơn vợ con, gia đình, bạn bè, đã tiếp tế cho tôi nghị lực, thức ăn, đồ uống, niềm hy vọng để đủ sức mà sống dù đã nhiều phen tôi thật sự vô cùng tuyệt vọng, vì có lúc cả trại (ở Nà Thao) chỉ còn lại một mình tôi là cựu Sĩ quan. Còn lại, toàn một thứ tù hình sự đầu trộm, đuôi cướp, hiếp dâm, giết người. Khi tôi từ giã rừng núi trở về, mọi người thân yêu còn đủ, không mất vợ, mất con, gia đình tan nát như một vài người bạn bất hạnh khác. Con cái ngoan ngoãn, hiếu thảo, một lòng gắn bó lấy nhau, chung sức với Mẹ để cùng gánh vác gia đình trong những tháng ngày… đúng là ba chìm, bảy nổi, chín cái lênh đênh; và cho đến lúc này, trên xứ sở, quê hương thứ hai này, chúng nó tất cả vẫn giữ được cái truyền thống tốt đẹp của hai bên gia đình Bố Mẹ…
Tôi cảm ơn Chính phủ và Nhân dân Hoa Kỳ đã mở rộng vòng tay đón nhận chúng tôi là những người tị nạn cộng sản để cho thế hệ chúng tôi được sống những ngày còn lại, trước khi tàn lụi và qua đi, nhường lại cho thế hệ con cháu chúng tôi có được cơ hội để sống, để làm người hữu ích cho Quê Hương Đất Nước Việt Nam mai sau, cho xã hội loài người văn minh, tiến bộ, tốt đẹp hơn trên con đường tương lai mới mẻ sau này…
No comments:
Post a Comment