VNTB – Giấc mộng kinh hoàng (bài 1)Phan Đức Minh
07.07.2025 9:20
VNThoibao

Ba hồi kẻng báo thức vang lên, tôi bật đầu dậy như cái máy. Suốt cuộc đời ba chìm bảy nổi, chín cái lênh đênh; từ lúc 15 tuổi bỏ trường học đi kháng chiến, đánh Tây, chui hầm, rúc hố; hai lần bị Tây bắt nhốt đầu vào tù, rồi 23 năm lính, hơn 12 năm tù cải tạo, phiêu bạt giang hồ qua bao nhiêu trại toàn là rừng với núi âm u, hiểm hóc giáp biên giới Lào. Bao phen chết lên chết xuống. Cho tới lúc này, 94 tuổi rồi (2025) đang sống ở Mỹ, tôi vẫn không ghét cái gì bằng ghét những tiếng kẻng báo thức ác ôn, khốn nạn đó. Nó lại bắt đầu một ngày lao động kinh khủng trong cái đói khát, khổ sở, nhọc nhằn đến tận cùng của cuộc đời.
Tất cả chung quanh đều tối om. Ngọn đèn dầu là chiếc lọ đựng thuốc, đốt bằng dầu cặn, lớn cỡ quả trứng gà, thường treo ở góc tường phía trước cầu tiêu cuối phòng đã tắt ngủm từ lúc nào vì số lượng dầu không đủ cho 1 đêm thắp sáng. Có tiếng la chí choé vì thằng nọ đái vào thằng kia. Tên ngồi trên cầu tiêu chưa kịp lên tiếng thì đã bị thằng đứng phía dưới, kẹt quá vội vã… đi một đường vòng cầu, tưới ướt sũng từ cổ trở xuống. May mà vì ngồi trên cao cho nên mắt mũi, mồm miệng chưa phải lãnh cái thứ nước ghê gớm đó của tù cải tạo, tích tụ cả đêm, nay được dịp xả ra.
Cảnh náo loạn này thường xuyên xảy ra vì tay nào cũng khôn ngoan, kinh nghiệm đầy mình, cứ thức dậy sớm hơn người khác một tí là phải lò mò, rón rén trong cái tối đen như mực Tàu, rồi lần vào cái cầu tiêu duy nhất ở cuối phòng, lo “giải quyết bầu tâm sự” cái đã. Nếu không, khi kẻng báo thức vang lên là gần một trăm tên tù cải tạo của 10 cái nhà nhốt – những tên được coi là ác ôn côn đồ thượng hạng: cấp chức cao, có thành tích chống phá cách mạng hung hãn nhất, nhiều phen bị nhốt chuồng cọp vì đủ thứ việc… sẽ đổ xô vào cái nhà cầu chỉ có 2 bàn cầu dành cho việc “đại sự”, còn “tiểu sự” thì cứ việc thoải mái tưới xuống cái rãnh trước bồn nước, do tên tù trực phòng gánh nước giếng đổ vô đó từ chiều hôm trước.
Đèn điện bật sáng 10 phút cho tù dọn dẹp đủ thứ trên đời, trên cái “lãnh thổ” dành cho mỗi tên: chiều dài 2 mét theo bệ xi-măng, chiều ngang đo đúng 3 gang tay của tôi. Khi ngủ mà nằm ngửa là đụng hay đè lên nhau cho nên ban đêm khi ngủ chỉ có cách nằm nghiêng mà thôi.
Bệ xi-măng làm giường ngủ là ở trình độ cao cấp nhất, do công an “phát minh” ra. Những năm đầu, quân đội nhân dân quản lý tù, người ta cho tù ngủ trên những cái sạp đan bằng nứa, tre rừng, cây nhỏ. Xài kiểu này, đập cho chết dân tù nhà ta vẫn tìm cách giấu diếm, rồi nhét đâu đó vài ba mẩu giấy linh tinh, mấy thứ đồ “quốc cấm, nguy hiểm, bí mật”. Công an xài bệ xi-măng thì tù chỉ còn có nước… khóc mà thôi, nhét cái gì xuống bệ xi-măng được nữa bây giờ ?
Tiếng khóa mở cửa , rồi tiếng kéo cây sắt chắn ngang bên ngoài kêu rầm rầm. Tên tù trong Ban trật tự Trại (gốc con ông cháu cha nón cối, hay có dây mơ rễ má với cán bộ của trại ) quát to: “Nhà 10 ra tập hợp điểm danh, mau lên!”. Những con người đó vọt ra khỏi cửa, đứng sau hàng rào kẽm gai, vặn mình, vặn mẩy, vung tay, vung chân cho khỏi mỏi sau một đêm ngủ theo cái kiểu co quắp, úp thìa (xếp muỗng) vì vùng núi ban đêm lạnh nhiều hơn nóng. Mùa đông thì thôi, lạnh khỏi nói, lạnh muốn chết luôn.
Ba hồi còi rít lên, tất cả dân tù ngồi chồm hổm xuống đất, 10 tên 1 hàng cho cán bộ trực trại điểm danh, ghi sổ. Xong màn điểm danh, một số chạy vô trong nhà lo dọn dẹp, chuẩn bị lãnh khoai sắn, đồ đem theo đi lao động. Riêng tôi, cái bao cát có quai đeo, do vợ con đem cho khi “thăm nuôi” đã sống chết theo sát bên tôi bao nhiêu năm rồi, không nhớ nữa. Công an mà nghe nói “thăm nuôi” là có chầu bị hỏi thăm sức khoẻ vì Đảng và Nhà Nước có để cho ai đói đâu mà phải “nuôi”, phải nói là “đi thăm” mới đúng chính sách. Trong túi là phần khoai sắn ăn trưa nhét trong cái lon gô đen sì, nham nhở vì đã qua nhiều phen “trận mạc, khói lửa”, là cái lon đựng sữa bột Guigoz cho con nít trước 1975 được tôi dùng làm nồi niêu, xoong chảo, nấu nướng đủ thứ trên đời, bất cứ thứ gì kiếm được khi công an đóng chốt ở xa hoặc thả tù vào núi, vô rừng lao động. Ngoài ra còn có bi đông nước, lãnh theo tiêu chuẩn nhà bếp, uống cho một ngày, một cái bao ni lông để nếu hoàn cảnh cho phép thì “cải thiện” tức là kiếm chác tí rau hoang, cà dại, con cóc, con nhái bỏ vô. Đến trưa nghỉ giải lao, tìm cách xoay sở biến thành thức ăn bồi dưỡng, không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc, miễn sao đừng chết hay ngất ngư là được rồi. Con gì cũng ăn hết, trừ có con… dao và con… bù-loong là chịu chết, chưa bao giờ dám ăn thử.
Một số anh em vọt ra phía cầu tiêu công cộng của trại, có khi để “giải quyết bầu tâm sự” mà cũng có khi là để liên lạc, trao đổi dấm dúi cái này cái nọ với bạn bè ở nhà khác hay với đám tù hình sự… Phải đóng tuồng cho khéo, kẻo công an hay đám ăng-ten (bọn tù được công an tuyển chọn, cho hưởng đặc ân: lon gạo, miếng thịt, miếng cá mỗi tháng, giao nhiệm vụ theo dõi và báo cáo về mọi hành động lén lút, vi phạm nội quy) biết được thì cuộc đời khốn khổ, khốn nạn ngay.
Một hồi kẻng dài điểm thêm 3 tiếng đằng sau là chúng tôi ào ra phía cổng trại, ngồi chồm hổm trên cái sân đất rộng, xếp hàng điểm số, đi lao động. Tên công an trực trại, ngồi trong “lô cốt” dò sổ rồi kêu: Nhà 10! Chúng tôi đứng bật dậy, đi ra cổng, thứ tự hàng 1 theo sự điều khiển của tên tù đội trưởng hoặc đội phó (được công an tuyển chọn theo tiêu chuẩn của chúng), đếm số rồi bước ra khỏi cổng. Mấy tên trực dụng cụ chạy vào kho nhận và vác đi theo mấy bó dao đi rừng.
Hôm nay, Nhà 10 chúng tôi có nhiệm vụ đi lấy mây, tiêu chuẩn tối thiểu 70 cây, dài 2 mét. Nghe qua thì coi bộ ngon ăn, nhưng tìm cho ra khu rừng nào có mây hay còn mây sau hàng chục năm bị tù càn lui, quét tới, quả thực không phải là chuyện dễ. Dao rừng phải cột lại thành từng bó, tới địa điểm do công an quyết định mới được tháo ra, phát dao cho từng người. Phát trước, sợ tù dùng làm vũ khí… hỏi thăm sức khỏe bọn công an áp giải.
Trại của chúng tôi đã có một vụ âm mưu nổi loạn, cướp súng, giết công an, đốt trại rồi kéo nhau qua biên giới Lào, ngay sau vụ Trung cộng kéo quân sang đánh phá 6 tỉnh miền Bắc hồi đầu năm 1979, dạy cho Hà Nội “một bài học” vì đã dám theo sư phụ Liên Xô đem quân sang Căm-Bốt đánh cho bọn cầm quyền Khơ-me đỏ, con đẻ của Trung cộng, rách như cái mền, chạy tá hỏa tam tinh lên rừng lên núi. Âm mưu nổi loạn này bị bại lộ, cộng sản đã lập Tòa án nhân dân ngay tại trại, xử tử hình sĩ quan cầm đầu, còn lại thì lãnh án từ 15 năm tù trở lên cho đến chung thân khổ sai.
Trung úy Nguyễn Văn Sĩ, Biệt Động Quân, Trưởng Ban tuyên truyền, chắc nó thương tôi, chớ không phải nó quên. Vì quên làm sao được khi có tin tức chi, công việc ra sao, nó cũng chớp nhoáng cho tôi hay để lo liệu công việc, ở ngay góc đống rác cạnh hàng rào kẽm gai ngăn Nhà 10 của tôi với Nhà 11 của nó. Khi chập choạng tối, sau khi điểm danh và trước khi tù phải vào phòng để khoá cửa sắt. Ít lâu sau nó được thả ra, về Sài Gòn rồi cưới vợ, cưới cô con gái thương yêu nó hết mình. Chưa cưới hỏi chi cả mà cứ 6 tháng 1 lần, cô từ Sài Gòn ra Trung, lên núi thăm nó đàng hoàng. Mối tình sao mà cao đẹp đến thế! Vậy mà khi điều tra ra, nó bị Công an Sài Gòn bắt lại, từ giã người vợ thương yêu nó nhất trên đời này, đưa về trại cũ, đánh đập, tra khảo tàn nhẫn. Nó phải khai ra vô số những người đã liên lạc với nó, nhưng nó lại không khai tôi vào số đó. Tôi chỉ biết thầm cảm ơn và cầu xin Trời-Đất phù hộ cho nó. Mà thôi! Vì sau đó, nó bị tống vô xà-lim, ngục tối, tôi chẳng bao giờ gặp nó nữa, trừ 1 lần cuối cùng nó bị điệu ra trước Tòa án nhân dân lập ngay trong trại, xét xử theo “Luật Rừng” cho 5, 6 trăm tù thứ dữ coi cho sợ.
Mỗi khi lên rừng lấy mây, tôi thường đi cặp đôi với cậu bạn thân, Đại úý H. trước làm ở Tiểu khu Quảng Nam. Nó ít tuổi hơn tôi, cấp chức cũ cũng nhỏ hơn nên nó gọi tôi là Bác. Còn tôi cứ gọi hắn bằng tên… cúng cơm cho thân mật. Tay bạn này thuộc loại “số đỏ” bởi vì có 2 vợ mà khi đi tù, cả 2 bà vợ đều… nhất trí cao, coi nhau đều là vợ cả. Hai bà vẫn một lòng chia sẻ với nhau anh chồng chung như thuở nào, thay phiên nhau đi thăm nuôi đàng hoàng. Thật đáng khen, đáng phục hai bà này, không như nhiều tay khác, khi mũ mão cân đai thì vợ cả, vợ hai, vợ ba nữa chưa biết chừng, nhưng khi đi tù cải tạo thì vợ hai, vợ ba lễ phép trả lại ông chồng cho bà vợ cả mà mình đã trót dại… cầm nhầm, xài ẩu khi ổng còn… “lên xe xuống ngựa”.
Bà vợ cả thì… hận thù chất ngất như dãy Trường Sơn đối với anh chồng… ham của mới mà phụ lòng của cũ, thành ra anh chồng đa vợ này cuối cùng trở thành mồ côi, chẳng có vợ nào đi thăm nuôi cả. Lâu ngày, đói quá, còm cõi, lao động hết xí quách cho nên ra chân đồi, chân núi mà ngủ. Làm bạn, làm đồng chí, đồng choé với dế, với giun hồi nào không hay. Các Cụ nhà ta vẫn bảo “Tham thì thâm – Bắt cá hai ba tay thì rốt cuộc chẳng được con nào hết trơn”. Mấy ông bà già trầu của Mỹ cũng phán “All covet, all lose – Grasp all, lose all” chớ bộ không đâu! Hai đứa chúng tôi luôn đi lấy mây cùng với nhau vì nhiều lý do: hạp tính tình, vui vẻ, tin cậy lẫn nhau, sẵn sàng giúp đỡ nhau lúc khó khăn. Vả lại đi đông người thì cánh rừng nào có mây là quân ta càn quét mau hết, bữa khác sẽ… chết nhăn răng ra với nhau.
(Còn tiếp)…
No comments:
Post a Comment