Cạnh tranh trong giới tinh hoa và sự thiếu nhất quán trong cách phát ngôn của bộ máy tuyên truyền Việt Nam
ISEAS
Tác giả: Lương Nguyễn An Điền và Nguyễn Khắc Giang
Cù Tuấn, biên dịch
17-9-2025
Tiengdan
18/09/2025
Tóm tắt:
Bài viết dài này lập luận rằng bộ máy tuyên truyền của Việt Nam ngày càng bị định hình bởi những căng thẳng nội bộ giữa hai liên minh tinh hoa phi chính thức nhưng có ảnh hưởng xã hội. Một bên là những nhân tố bảo thủ ẩn náu trong bộ máy quân sự và tư tưởng, những người ưu tiên sự chính thống về tư tưởng và an ninh chế độ. Bên kia là những người thực dụng theo chủ nghĩa cải cách, thường xuất thân từ các thể chế ngoại giao và kinh tế, những người coi trọng tính chính danh về hiệu quả hoạt động, việc hội nhập quốc tế và hiện đại hóa hành chính.
GIỚI THIỆU
Hệ thống tuyên truyền của Việt Nam được nhìn nhận rộng rãi là gắn kết và được quản lý chặt chẽ, được định hình bởi một kiến trúc tập trung, phản ánh cam kết lâu dài của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc kiểm soát thông tin. Nhận thức này đã được củng cố bởi các cơ chế giám sát tư tưởng chính thức, từ các phương tiện truyền thông do đảng kiểm soát đến sự thống nhất bắt buộc về mặt biên tập với các quan điểm chính thức. Tuy nhiên, bên dưới vẻ ngoài thống nhất này là một bối cảnh chia rẽ và mang tính linh động.
Bài viết này lập luận rằng bộ máy tuyên truyền của Việt Nam, mặc dù được tập trung hóa về mặt thể chế, ngày càng bị định hình bởi những căng thẳng nội bộ liên quan đến sự chia rẽ sâu sắc hơn giữa hai liên minh tinh hoa phi chính thức nhưng có ảnh hưởng xã hội. Một bên là những nhân tố bảo thủ ẩn náu trong bộ máy quân đội và tư tưởng, những người ưu tiên sự chính thống về tư tưởng và an ninh chế độ. Bên kia là những người thực dụng theo chủ nghĩa cải cách, thường xuất thân từ các thể chế ngoại giao và kinh tế, những người coi trọng tính chính danh về hiệu quả hoạt động, sự tham gia quốc tế và hiện đại hóa hành chính. Những phe phái này không chỉ theo đuổi các ưu tiên chính sách khác nhau mà còn đưa ra những luận điệu đối lập, dẫn đến sự thiếu nhất quán trong thông điệp công khai của Việt Nam.
Bài viết khám phá những căng thẳng này thông qua một số nghiên cứu điển hình, cho thấy tuyên truyền của Việt Nam không nên được xem như một tiếng nói đơn điệu, mà là một đấu trường tranh giành, nơi chủ nghĩa bè phái nội bộ định hình – và thường xuyên chia rẽ – các hoạt động truyền thông đối ngoại. Việc nhận diện những mâu thuẫn nội bộ này là rất quan trọng để diễn giải định vị chính sách đối ngoại của Việt Nam và hiểu được những động lực chính trị đang thay đổi đằng sau hình ảnh được xây dựng kỹ lưỡng của nước này.
BỘ MÁY TUYÊN TRUYỀN: KIỂM SOÁT TẬP TRUNG, CẠNH TRANH NỘI BỘ VÀ SỰ PHÂN ĐỔI THỂ CHẾ
Bộ máy tuyên truyền của Việt Nam theo truyền thống xoay quanh sự tập trung chặt chẽ, chủ yếu do Ban Tuyên giáo Trung ương quản lý. Là “cảnh sát tư tưởng” của Đảng, ủy ban này đảm bảo sự nhất quán về tư tưởng bằng cách trực tiếp điều phối thông điệp trên các phương tiện truyền thông, giáo dục và văn hóa. Tổng biên tập của tất cả các cơ quan truyền thông, những người phải là đảng viên mới đủ điều kiện đảm nhiệm chức vụ này, thường xuyên tham dự các cuộc họp để giám sát việc tuân thủ các hướng dẫn nội dung nghiêm ngặt và xử lý các sai lệch. Bổ sung cho việc này, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch – hiện chịu trách nhiệm cấp phép truyền thông và các chức năng quản lý trước đây do Bộ Thông tin và Truyền thông nắm giữ – đã hình thành một cơ sở hạ tầng vững chắc, cân bằng giữa việc kiểm soát tư tưởng với quản lý quy định.
Mặc dù có cơ cấu tập trung, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) vẫn tiềm ẩn những chia rẽ sâu sắc nhưng hậu quả khôn lường giữa hai liên minh tinh hoa: những người bảo vệ bảo thủ và những người thực dụng cải cách. Những người bảo thủ ưu tiên sự chính thống về ý thức hệ, các nguyên tắc Marx-Lenin và an ninh chế độ, cảnh giác phản đối “diễn biến hòa bình” hay ảnh hưởng của phương Tây, một luận điệu được củng cố mạnh mẽ dưới thời cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (nhiệm kỳ 2011–2024). Tuy nhiên, những người thực dụng cải cách nhấn mạnh đến hiện đại hóa thể chế, tự do hóa kinh tế và hội nhập quốc tế, ưu tiên hiệu quả chính sách hơn là sự trong sáng về ý thức hệ. Mặc dù không được pháp điển hóa chính thức, những phe phái này đã định hình đáng kể chính sách, quản trị, và đặc biệt là bối cảnh tuyên truyền, dẫn đến những luận điệu mâu thuẫn và sự mơ hồ về chiến lược.
Khối bảo thủ có gốc rễ sâu xa trong quân đội, các cơ quan an ninh nội bộ và các tổ chức như Ủy ban Tuyên truyền và Vận động quần chúng Trung ương. Các phương tiện truyền thông liên kết với phe bảo thủ củng cố sự cứng nhắc về ý thức hệ này. Các cơ quan truyền thông quân sự chính thức, chẳng hạn như Quân đội Nhân dân và Quốc phòng Việt Nam, liên tục tuyên truyền các câu chuyện nhấn mạnh đến chủ quyền quốc gia, chủ nghĩa anh hùng cách mạng và sự nghi ngờ về động cơ của phương Tây. Các nhóm truyền thông xã hội có ảnh hưởng liên kết với khối này, chẳng hạn như Thăng Long TV và Tifosi, thường xuyên khuếch đại những chủ đề này trực tuyến, khai thác tình cảm dân tộc chủ nghĩa và chấn thương hậu thuộc địa để củng cố tính chính danh của chế độ. Hệ sinh thái truyền thông bảo thủ này cũng đóng vai trò là một cơ chế trấn an mang tính biểu tượng đối với những người theo đường lối cứng rắn, đặc biệt là trong các giai đoạn điều chỉnh chính sách đối ngoại, chẳng hạn như việc nâng cấp ngoại giao lên Đối tác Chiến lược Toàn diện với Mỹ vào tháng 9 năm 2023.
Những người theo chủ nghĩa thực dụng cải cách chủ yếu lấy sức mạnh từ các giới ngoại giao, các bộ kinh tế và các cơ quan kỹ trị. Mặc dù bị loại khỏi các cơ quan tuyên truyền chính thức, những người theo chủ nghĩa cải cách sử dụng các kênh thay thế như Đài truyền hình Việt Nam (VTV), các nền tảng kỹ thuật số và các bài phát biểu của các nhà lãnh đạo chủ chốt để báo hiệu sự thay đổi trong định hướng chính sách. Sự thăng tiến nhanh chóng của Tổng Bí thư Tô Lâm và việc ông rời bỏ chủ nghĩa bảo thủ tư tưởng của người tiền nhiệm Nguyễn Phú Trọng đã khiến một số người theo chủ nghĩa bảo thủ cảm thấy bất an. Trong khi bộ máy tuyên truyền chính thức tiếp tục thúc đẩy một diễn ngôn về sự thống nhất và tính liên tục, những dấu hiệu tinh tế của sự bất đồng chính kiến nội bộ đã xuất hiện, đặc biệt là để đáp lại các cử chỉ tượng trưng và các ưu tiên chính sách của Tô Lâm.
Kể từ khi trở thành Tổng Bí thư vào tháng 8 năm 2024, ông Tô Lâm đã thể hiện một cách tiếp cận chủ động hơn trong việc quản lý thông điệp công khai – đặc biệt là thông qua phương tiện truyền thông kỹ thuật số – thể hiện mong muốn củng cố quyền kiểm soát thông tin thông qua truyền thông thực dụng, tập trung vào hiệu suất. Dưới sự lãnh đạo của ông, các thông tin có xu hướng cải cách đôi khi xuất hiện ngay cả trên các phương tiện truyền thông bảo thủ truyền thống như Công an Nhân dân (Cảnh sát Nhân dân), trước đây do Tô Lâm giám sát khi ông còn là Bộ trưởng Bộ Công an. Đầu năm 2025, ông Lâm cũng dẫn đầu một cuộc tái cấu trúc toàn diện, tập trung hóa và hợp nhất các cơ quan truyền thông nhà nước, đưa VTV trở thành đài truyền hình quốc gia duy nhất. Tuy nhiên, ảnh hưởng của chủ nghĩa cải cách trong truyền thông và diễn ngôn tư tưởng vẫn bị hạn chế đáng kể bởi sự giám sát của phe bảo thủ. Ngay cả các cơ quan báo chí chính thống phổ biến như Tuổi Trẻ và Thanh Niên, vốn được coi là tương đối tiến bộ, cũng hoạt động dưới sự quản lý nghiêm ngặt, với các biên tập viên phải chịu những hậu quả nghiêm trọng nếu đi chệch khỏi các nguyên tắc bảo thủ.
TUYÊN TRUYỀN PHI TẬP TRUNG VÀ NHỮNG MÂU THUẪN KHÔNG THỂ TRÁNH KHỎI
Trong khi kiểm soát tập trung và đấu tranh phe phái định hình cốt lõi tuyên truyền của Việt Nam, sự phát triển bùng nổ của các nền tảng truyền thông xã hội nước ngoài – đặc biệt là Facebook, YouTube và TikTok – đã phá vỡ sâu sắc cấu trúc này. Khi khán giả Việt Nam phân mảnh thành các mạng lưới chuyên biệt, được điều khiển bởi thuật toán, việc truyền tải thông điệp thống nhất của nhà nước ngày càng trở nên bất khả thi, buộc chính quyền phải dựa vào các tác nhân phi tập trung và bán tự chủ để duy trì ảnh hưởng.
Đứng đầu trong số những tác nhân này là Lực lượng 47, một đơn vị quân sự trên mạng được thành lập vào năm 2017 để phổ biến nội dung ủng hộ chế độ và chống lại sự bất đồng chính kiến trực tuyến. Lực lượng 47 vận hành nhiều tài khoản mạng xã hội bí mật, quản lý các nhóm Facebook ủng hộ chế độ và điều phối các chiến dịch kỹ thuật số chống lại những người chỉ trích. Tifosi và Thăng Long TV là biểu tượng của hệ sinh thái đang phát triển này. Là một phần của mạng lưới những người có ảnh hưởng theo chủ nghĩa dân tộc của Việt Nam, họ đóng một vai trò to lớn trong việc khuếch đại các câu chuyện về chế độ và kiểm soát các ranh giới ý thức hệ thông qua huy động trực tuyến và áp lực xã hội. Bằng cách chiêu mộ những tác nhân có liên kết lỏng lẻo này, chế độ đã mở rộng phạm vi tiếp cận của mình trên các nền tảng kỹ thuật số trong khi vẫn duy trì khả năng phủ nhận hợp lý. Những nhân vật nổi tiếng ủng hộ chế độ cũng được huy động một cách có hệ thống để phổ biến các câu chuyện được nhà nước chấp thuận, tiếp cận nhóm nhân khẩu học trẻ tuổi tham gia kỹ thuật số và làm mờ thêm sự khác biệt giữa tuyên truyền chính thức và không chính thức.
Trong khi mô hình tuyên truyền phi tập trung của Việt Nam tận dụng các tác nhân trực tuyến bán tự chủ để chống lại sự phân mảnh khán giả, cách tiếp cận này vô tình làm trầm trọng thêm sự thiếu nhất quán trong thông điệp, thông qua cái mà các học giả gọi là vấn đề chủ thể-tác nhân. Chính quyền trung ương (chủ thể) như bộ máy tuyên truyền của Đảng Cộng sản Việt Nam giao phó việc truyền tải thông điệp cho các tác nhân phi tập trung—những người có ảnh hưởng trực tuyến, các nhà hoạt động dân sự và các đơn vị mạng như Lực lượng 47. Mặc dù được giao nhiệm vụ quảng bá các thông điệp chính thức, các tác nhân đồng thời theo đuổi các động cơ riêng của họ, bao gồm tính lan truyền, sự tương tác của khán giả và sự tự quảng bá. Do đó, nội dung khiêu khích, mang tính cảm xúc của họ, mặc dù nhìn chung phù hợp với chế độ, đôi khi lại đi chệch khỏi các chỉ thị của trung ương, tạo ra những mâu thuẫn mà chính quyền khó kiểm soát hiệu quả.
Chủ nghĩa bè phái tinh hoa càng làm phức tạp thêm những thách thức này. Nhiều nhân vật chủ chốt đối địch nhau trong chế độ thường đưa ra những chỉ thị mâu thuẫn nhau cho các nhà tuyên truyền. Trong trường hợp Việt Nam, các phe phái bảo thủ thiên về an ninh có xu hướng ủng hộ chủ nghĩa dân tộc cứng rắn, chống phương Tây thông qua các kênh truyền thông liên kết với quân đội, trong khi các phe phái cải cách trong các thể chế kinh tế và ngoại giao lại thúc đẩy những luận điệu về hội nhập toàn cầu và cởi mở kinh tế. Bị mắc kẹt giữa những chỉ thị mâu thuẫn, các tuyên truyền viên chắc chắn sẽ đưa ra những thông điệp rời rạc và thiếu mạch lạc.
Cùng nhau, những áp lực kép này – việc các tác nhân theo đuổi tính lan truyền và các ưu tiên cạnh tranh của giới tinh hoa – đã phơi bày những chia rẽ tư tưởng trong ĐCSVN. Mặc dù các chế độ độc tài, như ở Việt Nam, luôn nỗ lực xây dựng những câu chuyện mạch lạc, nhưng môi trường truyền thông phi tập trung nhấn mạnh rằng bộ máy tuyên truyền của Hà Nội không hề đồng nhất hay thống nhất nội bộ. Các nghiên cứu điển hình dưới đây minh họa cụ thể cách thức căng thẳng trong giới tinh hoa chuyển hóa thành những thông điệp thiếu nhất quán, làm nổi bật những rạn nứt trong khuôn khổ tư tưởng của Việt Nam.
SỰ KHÔNG NHẤT QUÁN CỦA TUYÊN TRUYỀN ĐƯỢC TRƯNG BÀY: CÁC TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ
Phần này xem xét hai chủ đề bao quát: quan hệ Việt Nam – Mỹ và những căng thẳng đang nổi lên xung quanh sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm. Chủ đề đầu tiên tập trung vào hai trường hợp minh họa – câu chuyện hòa giải của nhà nước và tranh cãi về Đại học Fulbright Việt Nam. Chủ đề thứ hai khám phá những mâu thuẫn tinh tế trong thông điệp của chế độ liên quan đến Tô Lâm, bao gồm những phát biểu công khai ca ngợi Sài Gòn trước năm 1975 của ông, việc lặng lẽ gỡ bỏ ảnh bìa tạp chí The Economist có hình ông, và những tranh cãi về chương trình cải cách bộ máy hành chính quan liêu chủ chốt của ông.
1. Câu chuyện hòa giải của Việt Nam và phản ứng dữ dội của “Cờ Vàng”
Việt Nam chính thức thúc đẩy hòa giải dân tộc, nhấn mạnh sự đoàn kết với người Việt Nam ở nước ngoài và cởi mở với những người có lịch sử gắn bó với chế độ miền Nam Việt Nam do Mỹ hậu thuẫn. Chính sách này hướng đến sự hòa nhập, thực dụng về kinh tế và hội nhập quốc tế, đồng thời tích cực khuyến khích sự đóng góp của cộng đồng người Việt ở nước ngoài.
Tuy nhiên, từ đầu năm 2023 đến giữa năm 2024, một làn sóng chủ nghĩa dân tộc cực đoan trên mạng đã phá vỡ nghiêm trọng lập trường này. Các trang Facebook ủng hộ chế độ nổi tiếng và các nhóm mạng dân tộc chủ nghĩa đã nhắm mục tiêu vào các nghệ sĩ Việt kiều như thần tượng K-pop Hanni và ca sĩ Myra Tran vì lòng trung thành được cho là của họ với “lá cờ vàng” – một biểu tượng chính trị nhạy cảm đại diện cho chế độ Nam Việt Nam trước năm 1975. Những người theo chủ nghĩa dân tộc này đã tỉ mỉ tìm kiếm trên mạng xã hội những lần xuất hiện bên cạnh lá cờ, gán cho các nghệ sĩ này là những kẻ phản bội và khơi mào làn sóng phản đối dữ dội trên mạng, buộc nhiều người nổi tiếng phải đưa ra lời xin lỗi công khai.
Tuy nhiên, những lời xin lỗi này chỉ làm tăng thêm sự giám sát. Ban đầu, một số phương tiện truyền thông chính thức chính thống đã củng cố lòng nhiệt thành dân tộc này. Đáng chú ý, Công an Nhân dân đã chỉ trích lời xin lỗi của Myra Tran là không chân thành và đổ toàn bộ trách nhiệm về những vi phạm tư tưởng cho các nghệ sĩ. Tương tự, Đại Đoàn Kết, tờ báo chính thức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, yêu cầu những người làm nghề giải trí chủ động tránh bất kỳ sự liên kết nào với “biểu tượng phản động”. Khi lòng nhiệt thành dân tộc này leo thang, cơ quan ngôn luận của ĐCSVN đã đứng ra can thiệp. Vào tháng 11 năm 2024, báo Nhân dân đã lên án rõ ràng chủ nghĩa dân tộc cực đoan và chủ nghĩa tự phát trực tuyến hung hăng, cảnh báo rằng những hành động này làm suy yếu chính sách hòa giải cơ bản của Việt Nam. Trong một bài xã luận, Nhân dân nhấn mạnh rằng lòng yêu nước thực sự bác bỏ chủ nghĩa cực đoan và ủng hộ những biểu hiện có chừng mực và có trách nhiệm của lòng tự hào dân tộc.
Vụ việc này đã nhấn mạnh cách các tác nhân dân tộc chủ nghĩa phi tập trung – đặc biệt là các nhóm mạng xã hội ủng hộ chế độ – có thể hung hăng phá hoại các luận điệu hòa giải chính thức. Nó cũng phơi bày những mâu thuẫn nội bộ trong chính các cơ quan truyền thông của Việt Nam, ban đầu đã khuếch đại chủ nghĩa dân tộc cực đoan trước khi sau đó kiềm chế nó. Tuy nhiên, những căng thẳng này vượt ra ngoài tính biểu tượng lịch sử, xâm nhập vào các cuộc tranh luận đương đại về mối quan hệ đang phát triển của Việt Nam với Mỹ, được minh họa rõ nét qua những tranh cãi xung quanh Đại học Fulbright Việt Nam (FUV) do Mỹ hậu thuẫn.
2. Câu chuyện FUV
Phản ứng dữ dội chống lại FUV bắt đầu từ một sự cố tưởng chừng nhỏ nhặt trong lễ diễu hành tốt nghiệp tháng 6 năm 2024, khi các sinh viên tốt nghiệp mang biểu ngữ “Lớp học của những người can đảm” mà không hề treo quốc kỳ Việt Nam. Những người ủng hộ chế độ trên mạng xã hội đã nhanh chóng diễn giải hành động này là sự thách thức chính quyền. Sự cố này đã khơi lại những tranh cãi trước đây xung quanh FUV, đáng chú ý là việc bổ nhiệm cựu Thượng nghị sĩ Mỹ Bob Kerrey vào năm 2016 – người có thành tích trong Chiến tranh Việt Nam đã gây ra sự phẫn nộ của những người theo chủ nghĩa dân tộc – và việc chiếu bộ phim tài liệu về Chiến tranh Việt Nam của Ken Burns vào năm 2022, bị những người theo đường lối cứng rắn coi là cổ súy cho quan điểm lịch sử ủng hộ Mỹ.
Từ tháng 7 đến đầu tháng 8 năm 2024, được kích hoạt bởi các cuộc biểu tình chống chính phủ do sinh viên lãnh đạo gây chết người ở Bangladesh, các trang Facebook theo chủ nghĩa dân tộc, những người có ảnh hưởng liên kết với nhà nước và các blogger bảo thủ đã leo thang các cáo buộc của họ và coi FUV là trung tâm cho hoạt động lật đổ thân phương Tây, có khả năng ấp ủ một “cuộc cách mạng màu” dưới chiêu bài chiến lược “diễn biến hòa bình” của Mỹ. Những tuyên bố này đã tăng cường sau khi kênh truyền hình liên kết với quân đội Quốc Phòng Việt Nam phát sóng một bài phê phán rõ ràng vào ngày 21 tháng 8 năm 2024, liên kết chương trình giảng dạy tự do của FUV và các mối liên hệ với Mỹ với các mối đe dọa xâm nhập ý thức hệ. Thông điệp do phe phái thúc đẩy như vậy chứng minh một cách sống động những gì các học giả như Tuong Vu và Alexander Vuving đã ghi lại trước đây: Sự tranh chấp nội bộ của giới tinh hoa Việt Nam thường thể hiện trong các câu chuyện ý thức hệ đối đầu và các trò chơi quyền lực trong chế độ.
Tuy nhiên, khi căng thẳng nội bộ gia tăng, các phe phái khác nhau trong nhà nước trở nên rõ ràng. FUV đã công khai bác bỏ các cáo buộc vào ngày 14 tháng 8 năm 2024, nhấn mạnh việc tuân thủ luật pháp Việt Nam và sự ủng hộ của các quan chức cấp cao. Ngay sau đó, sinh viên và cựu sinh viên đã bảo vệ FUV trên các phương tiện truyền thông quốc tế. Nhận thấy thiệt hại ngoại giao tiềm ẩn, Bộ Ngoại giao Việt Nam (MOFA) đã can thiệp vào ngày 26 tháng 8 năm 2024, công khai tái khẳng định sự ủng hộ đối với vai trò của FUV trong việc thúc đẩy quan hệ giáo dục song phương, trên thực tế là chống lại các luận điệu cứng rắn. Sau sự can thiệp ngoại giao của MOFA, đến đầu tháng 9 năm 2024, các phương tiện truyền thông nhà nước—bao gồm cả Quốc Phòng Việt Nam—đã dịu giọng và gỡ bỏ báo cáo kích động khỏi các kênh chính thức. Các chiến dịch truyền thông xã hội theo đường lối bảo thủ nhanh chóng mất đi động lực.
Câu chuyện này đã phơi bày rõ ràng những mâu thuẫn trong hệ thống tuyên truyền của Việt Nam. Các thế lực dân tộc chủ nghĩa phi tập trung đã tích cực tuyên truyền những luận điệu chống FUV, hoàn toàn trái ngược với thông điệp ngoại giao nhấn mạnh vai trò tích cực của trường đại học này trong quan hệ song phương. Sự can thiệp nhanh chóng của khối thực dụng nhằm phản bác các luận điệu truyền thông có liên hệ với quân đội đã làm nổi bật căng thẳng phe phái giữa các nhóm bảo thủ tập trung vào an ninh và những người theo chủ nghĩa cải cách ủng hộ hội nhập quốc tế. Điều đáng chú ý là thời điểm này cũng làm dấy lên suy đoán về việc liệu vị thế ngoại giao của Tổng Bí thư Tô Lâm mới được bổ nhiệm có bị nhắm đến trước chuyến thăm dự kiến của ông tới Mỹ để tham dự Đại hội đồng Liên Hợp Quốc năm 2024 hay không, báo trước những sự cố tiếp theo cho thấy những bất đồng sâu sắc hơn về tầm nhìn lãnh đạo của ông.
3. Giữa Cải cách và Kháng cự: Những câu chuyện đối lập về sự lãnh đạo của Tô Lâm
Căng thẳng nội bộ xung quanh sự lãnh đạo của Tô Lâm—đặc biệt là sự phản kháng bảo thủ đối với chủ nghĩa cải cách thực dụng của ông—đã nổi lên rõ nét trong các tập phát biểu công khai gần đây. Một ví dụ điển hình xảy ra vào tháng 1 năm 2025, khi ông Lâm trao tặng Huân chương Sao Vàng—huân chương cao quý nhất của Việt Nam—cho cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, một đối thủ lâu năm của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Động thái này đã gây ra sự bất an trong số những người có ảnh hưởng trên mạng xã hội có liên hệ với quân đội, mặc dù ít người lên tiếng chỉ trích trực tiếp. Trong một buổi phát trực tiếp, Thăng Long TV đã đưa ra một câu trả lời khó hiểu: “Tôi nên phản ứng thế nào?… Thành thật mà nói, tôi cảm thấy hơi nản lòng… Tôi chỉ muốn dùng lời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, rằng ‘nhân dân biết hết mọi thứ’”. Cụm từ này, được hiểu rộng rãi ở Việt Nam, ngụ ý nhận thức của công chúng về những thất bại về đạo đức hoặc chính trị của một nhà lãnh đạo. Trên một trang khác, trang Bộ đôi Cụ Hồ đã đăng một video so sánh việc ông Dũng trao tặng Huân chương Quân công năm 2015 cho ông Lâm với cử chỉ đáp lễ của ông Lâm năm 2025—ám chỉ một mối quan hệ có đi có lại. Bài đăng đã thu hút sự chỉ trích gay gắt nhắm vào ông Dũng, một sự khác biệt bất thường so với môi trường trực tuyến thường bị kiểm duyệt của Việt Nam kể từ năm 2018.
Một sự rạn nứt rộng hơn xuất hiện vào tháng 2 năm 2025, khi ông Tô Lâm có bài phát biểu trong một kỳ họp Quốc hội. Đề cập đến quỹ đạo phát triển chậm chạp của Việt Nam, Tô Lâm đã công khai ca ngợi những thành tựu kinh tế của Sài Gòn trước năm 1975. Ông gọi thành phố này bằng biệt danh lịch sử “Hòn ngọc Viễn Đông” và công khai thừa nhận đây là thủ đô của Việt Nam Cộng hòa mà không có hàm ý miệt thị, một động thái được coi là chưa từng có đối với một lãnh đạo ĐCSVN. Đưa ra một sự so sánh rõ ràng, Tô Lâm đã nhấn mạnh đến uy tín khu vực của Sài Gòn vào những năm 1960, tuyên bố rằng thành phố này thậm chí đã vượt qua Singapore vào thời điểm đó và than thở về tình trạng trì trệ hiện tại của Việt Nam so với sự phát triển nhanh chóng của thành phố-quốc gia này. Bằng cách nhớ lại người Singapore từng khao khát được điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy ở Sài Gòn – trái ngược với thực tế ngày nay, nơi công dân Việt Nam theo đuổi dịch vụ chăm sóc y tế tại Singapore – Tô Lâm đã ngầm thừa nhận những nỗ lực hiện đại hóa thực sự của chế độ Việt Nam Cộng hòa trước đây.
Những phát biểu của ông Lâm đã ngay lập tức vấp phải sự chỉ trích từ các tuyên truyền viên trực tuyến theo chủ nghĩa dân tộc. Không lâu sau, Tifosi đã dán nhãn sự so sánh này là không chính xác về mặt lịch sử, lưu ý rằng vào năm 1970, GDP bình quân đầu người của Singapore gấp sáu lần Việt Nam Cộng hòa. Tifosi cũng nêu bật những thành tựu y tế ban đầu của Singapore, chẳng hạn như các ca phẫu thuật song sinh dính liền tiên phong và ghép thận, để phản bác lại gợi ý của ông Lâm rằng người dân Singapore từng mong muốn được điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy ở Sài Gòn. Tifosi kết luận thẳng thừng rằng những tuyên bố của ông Lâm là “KHÔNG CHÍNH XÁC” (được nhấn mạnh trong bản gốc). Thách thức công khai này – đặc biệt là thách thức nhắm vào nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng – là rất bất thường và cho thấy sự chấp thuận ngầm hoặc sự phản kháng có phối hợp từ các nhóm bảo thủ. Thăng Long TV đã nhanh chóng lặp lại lời chỉ trích này, bổ sung vào những gì dường như là một phản ứng được dàn dựng.
Những rạn nứt về ý thức hệ này cũng nổi lên trong dịp kỷ niệm 50 năm kết thúc Chiến tranh Việt Nam vào tháng 4 năm 2025. Trong bài phát biểu quan trọng của mình, Tô Lâm đáng chú ý là đã tránh những từ ngữ miệt thị lâu đời như “ngụy quyền” (chế độ bù nhìn) và “ngụy quân” (quân đội bù nhìn) được sử dụng chống lại chính quyền Nam Việt Nam trước đây. Ngược lại hoàn toàn, báo Quân Đội Nhân Dân – trong phần dành riêng để chống lại “diễn biến hòa bình” – đã nhiều lần đề cập đến “sự sụp đổ của chế độ bù nhìn Sài Gòn”, thậm chí chế giễu lực lượng Việt Nam Cộng hòa là “những tên hề” và “những kẻ hèn nhát”. Đáng chú ý, việc báo Quân Đội Nhân Dân sử dụng ngôn ngữ như vậy vượt xa báo Công An Nhân Dân. Những sự khác biệt về chủ đề này cũng thể hiện rõ ràng hơn ở phạm vi rộng hơn: Trong khi Quân Đội Nhân Dân nhấn mạnh việc bảo vệ các nguyên tắc ý thức hệ cốt lõi, thì Công An Nhân Dân ngày càng nêu bật các chủ đề phù hợp với chương trình nghị sự của TBT Tô Lâm, bao gồm tăng trưởng khu vực tư nhân, tái cấu trúc bộ máy quan liêu và hòa giải dân tộc.
Tập gần đây nhất và mang tính biểu tượng nhất diễn ra cùng với bài viết trang bìa tháng 5 năm 2025 trên tờ The Economist, mô tả Tô Lâm là “nhà cải cách có tầm ảnh hưởng nhất châu Á”. Trong khi bài viết nhận được sự chú ý rộng rãi trên mạng xã hội Việt Nam, những người có ảnh hưởng liên quan đến quân đội đã nhanh chóng đưa ra những lời phản bác. Họ cáo buộc tạp chí đã sử dụng “lời khen sai sự thật” để làm mất uy tín của cả Tô Lâm và chế độ. Tuy nhiên, trong nỗ lực bảo vệ Tô Lâm, những bài đăng này dường như đã sử dụng phép đảo ngữ – đưa ra những lời buộc tội trong khi bề ngoài lại bác bỏ chúng. Ví dụ, một bài đăng trên fb Tifosi đã tuyên bố rằng The Economist đã “ám chỉ chế độ độc tài và chủ nghĩa thân hữu” – qua đó đưa những cáo buộc này vào diễn ngôn công khai bất kể mục đích. Đáng chú ý là ấn bản in của The Economist sau đó đã bị cấm tại Việt Nam, và chỉ có tờ Quân Đội Nhân Dân bình luận công khai về vụ việc – và lặp lại những lời chỉ trích trực tuyến. Liệu điều này có phải là chiến lược hùng biện có chủ đích hay vô tình phơi bày sự chỉ trích hay không, vẫn còn mơ hồ. Tuy nhiên, mô hình này trái ngược đáng kể với các thông tin liên lạc mang tính phòng thủ trước đây: khi bảo vệ cựu lãnh đạo Nguyễn Phú Trọng, những bài viết ủng hộ chế độ này đã cẩn thận tránh sử dụng các thuật ngữ mang tính xúc phạm.
KẾT LUẬN
Bài viết này lập luận rằng bộ máy tuyên truyền của Việt Nam, không hề đồng nhất, mà là một khu vực đầy tranh chấp được hình thành bởi sự cạnh tranh nội bộ giữa các phe phái và những mâu thuẫn trong cách diễn đạt. Hoạt động dưới sự lãnh đạo chính thức của ĐCSVN, những mâu thuẫn này phản ánh một cách chiến lược những mệnh lệnh đối chọi nhau—sự kế thừa tư tưởng so với sự thích nghi thực dụng, tính chính thống bảo thủ so với sự cởi mở cải cách. Những cách diễn đạt khác biệt xuất hiện không chỉ xoay quanh những rạn nứt tư tưởng lâu đời, mà còn phản ứng trước sự lãnh đạo mới của Tổng Bí thư Tô Lâm, làm nổi bật những mâu thuẫn dai dẳng giữa các chủ thể thể chế, ưu tiên chính sách và chiến lược diễn đạt.
Với sự phối hợp của giới tinh hoa có thể bị hạn chế bởi các cuộc đấu tranh quyền lực ngày càng gay gắt trước thềm Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 14 vào đầu năm 2026, những mâu thuẫn nội bộ dự kiến sẽ vẫn tiếp diễn. Nếu không được giải quyết, những mâu thuẫn dai dẳng này có thể làm phức tạp đáng kể việc thực thi chính sách hiệu quả, làm trầm trọng thêm sự bất ổn trong giới tinh hoa, và làm suy yếu nhận thức quốc tế về sự gắn kết và uy tín chính trị của Việt Nam.
Đối với các nhà quan sát bên ngoài, sự phức tạp này đòi hỏi một cái nhìn sâu sắc hơn về việc tuyên truyền công khai của Việt Nam. Những mâu thuẫn hiển hiện là tín hiệu quan trọng của những cuộc tranh giành quyền lực sâu sắc hơn, những lo ngại về tính chính danh và những thay đổi chiến lược. Khi ban lãnh đạo mới của Việt Nam củng cố quyền lực giữa những áp lực toàn cầu và trong nước đang thay đổi, tuyên truyền của họ có thể sẽ vẫn là một chỉ báo giá trị – dù còn mơ hồ – về động lực chính trị nội bộ của nước này. Tuy nhiên, việc diễn giải chính xác những tín hiệu này sẽ vẫn là một thách thức do môi trường chính trị thiếu minh bạch và bối cảnh thông tin bị kiểm soát chặt chẽ của Việt Nam, điều này càng nhấn mạnh thêm nhu cầu có các phân tích sắc bén và bền vững.
No comments:
Post a Comment