Thursday, September 18, 2025

BÌNH LUẬN: VIỆT NAM VÀ NGHỊCH LÝ NIỀM TIN KHOA HỌC

Thưa quý thính giả, trong một khảo sát quốc tế vừa do tạp chí Nature Climate Change công bố liên quan đến biến đổi khí hậu, Việt Nam là quốc gia duy nhất không đặt niềm tin vào giới khoa học. Vì sao có hiện tượng đặc biệt này?
Trong chuyên mục BÌNH LUẬN sau đây, kính mời quý vị theo dõi bài viết của THẾ VŨ, thành viên Ban Biên Tập đài ĐLSN, tựa đề “Việt Nam Và Nghịch Lý Niềm Tin Khoa Học” sẽ do Vân Khanh trình bày để kết thúc chương trình phát thanh của đài ĐLSN tối hôm nay.

VIỆT NAM VÀ NGHỊCH LÝ NIỀM TIN KHOA HỌC
THẾ VŨ
DLSN
17/09/2025
RadioDLSN

Tạp chí khoa học uy tín của Anh quốc, tờ Nature Climate Change, đã thực hiện một cuộc khảo sát năm 2025 tại bảy nước gồm Chile, Colombia, Ấn Độ, Kenya, Nigeria, Nam Phi và Việt Nam, để tìm hiểu nguồn thông tin nào được công chúng tín nhiệm nhất về biến đổi khí hậu. Kết quả công bố vào đầu tháng 9 vừa qua cho thấy ở hầu hết các nước, giới khoa học được tin tưởng cao nhất và niềm tin ấy gắn liền với kiến thức căn bản của giới này. Tuy nhiên, Việt Nam lại là một ngoại lệ, khoa học không phải là chỗ dựa chính, thay vào đó dân chúng thường tin vào truyền thông nhà nước hay mạng xã hội.

Trước hết cần nhắc lại rằng Việt Nam là một đất nước có truyền thống hiếu học lâu đời. Từ thời Lý Trần, người dân đã kính trọng bậc thầy, quý trọng chữ nghĩa. Nhưng truyền thống ấy vốn đặt trọng tâm nơi Nho học, coi trọng đạo lý và luân thường nhiều hơn tinh thần duy nghiệm khoa học. Khi bước vào thế kỷ 20, dù có những nhà trí thức can đảm dấn thân đưa khoa học Tây phương vào giảng dạy, song sự phổ biến trong xã hội vẫn còn giới hạn.

Sau năm 1975, đất nước bị đặt dưới một thể chế độc đảng, và môi trường khoa học cũng bị chính trị hóa sâu đậm. Những ai bước vào con đường nghiên cứu thường phải chịu sự chi phối của đường lối đảng, nhiều khi không còn giữ được tinh thần độc lập và khách quan. Nền khoa học vốn cần tự do để phát triển thì lại bị giam cầm trong khuôn khổ ý thức hệ, khiến giới khoa học đánh mất dần uy tín đối với xã hội.

Người dân Việt Nam ngày nay thường chứng kiến những cảnh tượng mà chỉ cần một lần cũng đủ để mất trọn niềm tin. Họ thấy có những công trình nghiên cứu được ca ngợi rầm rộ trên báo chí, nhưng rồi chẳng bao lâu bị phát giác là thiếu cơ sở, thậm chí sao chép từ nước ngoài. Họ thấy các giáo sư tiến sĩ nhiều vô kể, số lượng tăng nhanh đến mức gần như vô lý, nhưng về phẩm chất thì lại bị dè bỉu trong dân gian. Họ thấy những đề tài khoa học trị giá hàng chục tỷ đồng ngân sách, cuối cùng chỉ xếp xó trong tủ, không đem lại lợi ích thiết thực nào. Và họ cũng thấy một số nhà khoa học, thay vì giữ phẩm cách trí thức, lại trở thành quan chức, tham gia vào bộ máy tuyên truyền, nói theo nghị quyết nhiều hơn nói theo sự thật. Từ những hiện tượng ấy, lòng tin nơi khoa học ngày càng bị xói mòn.

Trái lại, người dân có khi lại đặt niềm tin vào những nguồn mà giới trí thức xem là ít giá trị hơn. Vì thiếu một nền khoa học nghiêm túc và độc lập, dân chúng đành dựa vào truyền thông nhà nước, vốn phát đi những thông điệp được biên tập kỹ lưỡng theo ý chí của giới cầm quyền. Khi biến đổi khí hậu trở thành đề tài thời sự, báo chí quốc doanh đưa ra khẩu hiệu, phát động phong trào, và nhiều người tin theo không phải vì khoa học thuyết phục họ, mà vì thói quen nghe lệnh và sống trong khuôn phép. Một số khác thì ngả theo mạng xã hội, nơi tràn lan tin tức không được kiểm chứng, nhưng lại có vẻ gần gũi, nhanh chóng, hợp với sự tò mò thường nhật.

Một yếu tố nữa không thể bỏ qua là tình trạng giáo dục. Trường học Việt Nam lâu nay đặt nặng chuyện nhồi nhét hơn là khai phóng. Học sinh được dạy học thuộc lòng nhiều công thức, nhiều định nghĩa, nhưng hiếm khi được khuyến khích hoài nghi và thử nghiệm. Khi trưởng thành, họ có thể trở thành kỹ sư, bác sĩ, nhưng ít khi giữ được tinh thần tự do tư tưởng. Khoa học không thể chỉ sống bằng trí nhớ, mà cần sự tìm tòi sáng tạo. Khi môi trường giáo dục không hun đúc được phẩm chất ấy, thì xã hội cũng khó mà trông cậy vào khoa học như một kim chỉ nam.

Chính sự thiếu vắng độc lập ấy khiến cho Việt Nam trở thành một “biệt lệ” trong cuộc khảo sát của tạp chí Nature. Trong lúc các dân tộc khác nhìn giới khoa học như những người dẫn lối để hiểu biết về biến đổi khí hậu, thì dân chúng Việt Nam chưa thể dành niềm tin tương xứng. Họ không thấy ở các nhà khoa học trong nước một sự khách quan, một sự liêm chính, một tiếng nói tách biệt khỏi chính trị. Niềm tin bị thay thế bằng sự ngờ vực, và từ đó hiểu biết về khí hậu cũng thiếu gắn bó với khoa học mà chỉ dựa vào khẩu hiệu.

Hậu quả của tình trạng này vô cùng nguy hiểm. Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức sinh tử của thế kỷ này. Việt Nam, với đồng bằng sông Cửu Long đang hạ thấp mực đất, với miền Trung thường xuyên bão lụt, là một trong những nơi chịu thiệt hại nặng nề nhất. Nếu dân chúng không đặt niềm tin vào khoa học, thì mọi biện pháp thích ứng sẽ trở thành hình thức, mang tính phong trào hơn là thực chất. Người dân sẽ trồng cây theo phong trào, rồi bỏ mặc; sẽ đi nhặt rác theo chiến dịch, rồi ngày mai lại xả rác ra đường. Mọi nỗ lực chống biến đổi khí hậu sẽ trở thành trò hô khẩu hiệu, không đạt hiệu quả bền vững.

Để khôi phục niềm tin, cần một sự thay đổi từ gốc rễ. Giới khoa học phải lấy lại phẩm cách, nói điều mình tin là đúng, chứ không nói theo điều kẻ khác muốn nghe. Cần tách khoa học khỏi ý thức hệ, trả cho nó sự tự do và trách nhiệm trước sự thật. Giáo dục phải đào tạo thế hệ trẻ biết chất vấn, biết phản biện, biết dấn thân tìm tòi. Và trên hết, xã hội phải bảo vệ người trí thức độc lập, để họ không bị gạt ra bên lề chỉ vì dám nói sự thật.

Muốn được vậy, đối với Việt Nam, điều kiện duy nhất là phải dẹp bỏ thể chế độc tài đảng trị./.

No comments:

Post a Comment