Cuộc gặp gỡ giữa Mỹ và Việt Nam (Phần 5Tác giả: Kenneth T. Young
Trúc Lam chuyển ngữ
23-9-2025
Tiengdan
Tiếp theo phần 1 — phần 2 — phần 3 và phần 4“Tổng tuyển cử Geneva”
Vấn đề chính sách ngoại giao thật sự khó khăn trong năm 1955 và 1956 liên quan đến “tổng tuyển cử Geneva”. Vấn đề này liên tục được nêu ra trong các cuộc thảo luận với các đồng minh của chúng ta, với Sài Gòn, với những người Cộng sản, với báo chí và dư luận.
Tuyên bố bảy nước ngày 21 tháng 7 năm 1954 quy định rằng, “tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào tháng 7 năm 1956, nhằm bảo đảm việc khôi phục hòa bình đã đạt được những tiến triển đầy đủ, và tất cả các điều kiện cần thiết cho việc tự do bày tỏ ý chí dân tộc đã được đáp ứng”. Tuyên bố cũng nêu rõ rằng, việc giải quyết các vấn đề chính trị ở Việt Nam “sẽ cho phép người dân Việt Nam được hưởng các quyền tự do cơ bản, được bảo đảm bởi các thể chế dân chủ, được thiết lập sau tổng tuyển cử tự do bằng hình thức bỏ phiếu kín”.
Tài liệu này cũng quy định về việc tham vấn sau ngày 20-7-1955 giữa “các cơ quan đại diện có thẩm quyền của các khu vực” và rằng cuộc tổng tuyển cử đó sẽ được giám sát bởi một ủy ban quốc tế gồm Canada, Ấn Độ và Ba Lan. Tại Geneva, ‘Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa không tham gia vào bản tuyên bố này, không bị ràng buộc phải thực hiện nó; quan điểm của Hoa Kỳ tại Geneva và kể từ đó đã ủng hộ các cuộc tổng tuyển cử trên toàn quốc Việt Nam có sự giám sát hiệu quả và tự do thật sự dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc.
Chúng tôi tin rằng chính quyền Sài Gòn nên tích cực tham gia vào các cuộc tham vấn lẽ ra được tổ chức tại khu phi quân sự. Dĩ nhiên các đồng minh Pháp và Anh của chúng tôi bị ràng buộc bởi việc tuân theo tuyên bố này. Dư luận Pháp lúc bấy giờ dường như không mấy nhấn mạnh đến các quyền tự do cơ bản và các thể chế dân chủ, mặc dù các đồng sự Anh của chúng tôi đã làm như vậy. Tuy nhiên, trong suốt mùa xuân và mùa hè năm 1955, ở Sài Gòn, chúng tôi đã cố gắng thuyết phục Diệm và các cộng sự của ông tham gia vào các cuộc tham vấn đó với Hà Nội để thông báo cho toàn thể dân chúng Việt Nam về bản chất chung và chi tiết chính xác của các thủ tục dân chủ cho các cuộc bầu cử thật sự tự do. Chúng tôi đã tập hợp một lượng lớn tài liệu, sách vở và nguồn tư liệu về các cuộc bầu cử được tổ chức trên khắp thế giới để những người Việt theo chủ nghĩa dân tộc sử dụng.
Tuy nhiên, họ lại có quan điểm hoàn toàn trái ngược nhau về các cuộc tham vấn với Hà Nội. Họ cảm thấy rằng điều đó sẽ báo hiệu cho tất cả người Việt rằng những người theo chủ nghĩa dân tộc Việt Nam đã đầu hàng Cộng sản Việt Nam. Nếu những người theo chủ nghĩa dân tộc tiến vào khu phi quân sự, tâm lý Nho giáo của người dân miền Nam sẽ coi đây là dấu hiệu đầu hàng của Diệm và là mệnh lệnh chiến thắng của Hồ Chí Minh. Diệm và các đồng sự của ông đã từ chối chấp nhận “lệnh tử hình”.
Chúng tôi đã liên tục thúc giục họ nắm lấy thế chủ động. “Sự mù quáng của tổ tiên” – Ancestral blindness (*) giữa phương Tây và phương Đông đã va chạm. Diệm và những người theo chủ nghĩa dân tộc Việt Nam đã thắng trong cuộc tranh luận này với chúng tôi. Chúng tôi đã không và không thể buộc họ phải tự sát về mặt chính trị. Có lẽ chúng tôi đã không cố gắng hết sức hoặc không sử dụng đúng phương pháp kỹ thuật với Sài Gòn, chẳng hạn như một hội nghị cấp cao.
Nhưng Diệm không phải là bù nhìn. Người Việt là những người tự hào, độc lập và cứng rắn. Họ không nghe theo mệnh lệnh, dù là Quốc gia hay Cộng sản. Khi họ cảm thấy mạnh mẽ, họ thường hành động một cách cương quyết. Họ tin rằng Tuyên bố Geneva sẽ giết chết tự do dân tộc, cải cách dân tộc và độc lập dân tộc ở Nam Việt Nam và cuối cùng là ở Đông Nam Á. Đó không phải là “quyền tự quyết”, và đó mới là vấn đề thật sự lúc bấy giờ; nó vẫn là vấn đề then chốt ở Việt Nam. Diệm biết điều đó. Hồ Chí Minh biết điều đó. Dulles biết điều đó.
Chúng tôi không có nghĩa vụ pháp lý phải giúp tổ chức bầu cử năm 1956.
Chúng tôi chắc chắn sẽ không “giết chết miền Nam bằng sự bóp nghẹt chính trị trong các phòng bỏ phiếu gian lận. Mọi người đều biết rằng, phép tính “tổng tuyển cử” trên toàn cõi Việt Nam sẽ tự động bảo đảm quyền kiểm soát của Cộng sản đối với toàn bộ đất nước, bởi vì số người Việt Nam sống ở phía bắc vĩ tuyến 17 đông hơn ở miền Nam. Người dân miền Bắc sẽ chỉ được trao một lựa chọn và một danh sách ứng cử viên do Đảng Cộng sản và lực lượng an ninh Bắc Việt nắm giữ độc quyền. Nhưng phép tính không phải là vấn đề duy nhất trong “cuộc tổng tuyển cử Geneva”. Vấn đề khi đó, cũng như bây giờ, là loại hình tổng tuyển cử tự do sẽ được tổ chức, thật sự hay gian lận. Trong hoàn cảnh nào của tự do và lựa chọn chính trị? Với hình thức giám sát nào?
Năm 1955, ba nước đồng minh nhìn chung đã nhất trí về sự cần thiết phải tiến hành các cuộc tham vấn và thậm chí cả bầu cử nếu chúng ta có thể thuyết phục Sài Gòn làm như vậy, nếu các cuộc bầu cử thật sự tự do và được giám sát một cách hiệu quả. Tuy nhiên, chúng tôi ngạc nhiên khi thấy các đại diện Liên Xô – là Khrushchev, Molotov và Gromyko – dường như không mấy quan tâm đến việc tổ chức tham vấn cho các cuộc bầu cử ở Việt Nam.
Tôi còn nhớ, vấn đề này thật sự chưa bao giờ được đặt ra. Thay vào đó, các đại diện Liên Xô bác bỏ Việt Nam và ám chỉ rằng, áp lực từ phía chúng tôi để thảo luận về vấn đề này sẽ làm đảo lộn việc xem xét và ngăn cản các hội nghị về các chủ đề khác. Người Nga nói rằng, chúng ta không nên quá coi trọng những vấn đề này. Về các cuộc bầu cử tự do theo kiểu phương Tây, với nhiều đảng phái và sự lựa chọn ứng cử viên, người Nga lúc đó cũng cứng rắn như những người Cộng sản trong năm qua.
Năm 1955, người Mỹ hiểu rõ ràng rằng sẽ không có bất kỳ cuộc bầu cử tự do nào ở Bắc Việt Nam, Bắc Triều Tiên hay Đông Đức. Sẽ không thể có bất kỳ cuộc bầu cử nào ở Việt Nam theo kiểu phương Tây bất kể ngôn ngữ trong Tuyên bố Geneva đã nêu rõ. Cũng sẽ không có sự giám sát của Liên Hiệp Quốc. Những người Cộng sản dường như không muốn có sự giám sát chính trị và các cuộc bầu cử chính trị nào vào năm 1956.
Đến mùa xuân và mùa hè năm 1956, nhiều yếu tố khác đã kết hợp lại để trì hoãn “cuộc tổng tuyển cử Geneva” vô thời hạn. Ủy ban Kiểm soát Quốc tế đã hoàn toàn bị tê liệt ở Bắc Việt trong việc giám sát các khía cạnh quân sự của Hiệp định Geneva về đình chiến. Bắc Việt đã vi phạm hiệp định này trên nhiều khía cạnh quan trọng, như chính phủ Anh đã chỉ ra trong báo cáo tháng 4 năm 1956. Nếu Canada, Ấn Độ và Ba Lan không thể giám sát một hiệp định quân sự, thì có lý do gì để cho rằng đại diện của chính ba quốc gia này có thể giám sát và bảo đảm các cuộc bầu cử tự do ở Bắc Việt?
Hơn nữa, ngay cả nếu Ủy ban hoạt động hiệu quả hơn, Hoa Kỳ cảm thấy rằng các chính sách bầu cử của mình ở Việt Nam nên phù hợp với chính sách ở Triều Tiên. Ở đó, điều cần thiết là phải duy trì lập trường trong và ngoài Liên Hiệp Quốc rằng, các cuộc bầu cử trên cả nước Triều Tiên nên được đặt dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc, mặc dù các nhà hoạt động và những người ủng hộ nhấn mạnh vào sự giám sát “quốc tế” thay vì Liên Hiệp Quốc. Washington cho rằng cần phải nhất quán và không được vi phạm các nguyên tắc của mình ở cả Triều Tiên lẫn Việt Nam.
Cuối cùng, Hà Nội đã phản ánh những lời kêu gọi liên tục của Sài Gòn về việc tự do hóa các điều kiện ở miền Bắc để cho phép các quyền tự do cơ bản, các thể chế dân chủ, bỏ phiếu kín và tự do thể hiện ý chí dân tộc, như đã nêu trong Tuyên bố Geneva. Nếu Hà Nội thể hiện bất kỳ ý định nào theo hướng đó trong giai đoạn 1955-1960, thì Sài Gòn đã tham gia các cuộc tham vấn. Tuy nhiên, Hà Nội đã siết chặt hơn là nới lỏng sự kiểm soát của mình đối với người dân. Tướng Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng Cộng sản tại Hà Nội đã thừa nhận rằng, khủng bố, tra tấn và kiểm soát chính trị đã đi quá xa trong những năm 1955-1956.
Washington nhận ra rằng, việc hoãn “tổng tuyển cử Geneva” là một quyết định trọng đại có thể dẫn đến một cuộc đối đầu chính trị và quân sự lớn với Bắc Việt. Như nhiều người đã chỉ ra vào thời điểm đó, việc bỏ qua “tổng tuyển cử Geneva” năm 1956 có thể kích động Hà Nội tấn công miền Nam bằng cách lật đổ hoặc xâm lược để thống nhất Việt Nam bằng vũ lực, nếu Hồ Chí Minh không thể đạt được điều đó bằng con đường chính trị.
Đó chính là điều đã xảy ra. Hoa Kỳ tiếp tục đề nghị Diệm phát triển một số mối quan hệ với miền Bắc về thương mại, trao đổi nhân sự, thư tín và các hình thức khác mà không làm tổn hại đến sự toàn vẹn của Việt Nam Cộng hòa. Chính quyền Hà Nội đã đưa ra nhiều đề nghị như vậy trong vài năm. Diệm đã từ chối tất cả trong khi bày tỏ việc sẵn sàng thảo luận và tổ chức các cuộc bầu cử thật sự tự do ngay khi chính quyền miền Bắc cho phép tự do thật sự, tức là bất cứ khi nào chế độ Cộng sản không còn là Cộng sản nữa. Trong khi đó, một số nỗ lực đã được thực hiện để đẩy mạnh và củng cố chính sách “nam châm” về cải cách với an ninh nhằm thúc đẩy cách mạng dân tộc và thỏa mãn nguyện vọng, cũng như sự bất mãn của dân chúng.
________
(*) Ghi chú của người dịch: Nguyên văn, “Ancestral blindness”, nghĩa là thể hiện sự thiếu hiểu biết, không có kiến thức hoặc không nhìn thấy được sự thật do thói quen suy nghĩ ăn sâu, hoặc do quan điểm xã hội mà họ được thừa hưởng.
(Còn tiếp)
No comments:
Post a Comment