Monday, September 22, 2025

Hư cấu trong nghệ thuật và hư cấu trong tuyên truyền
Phạm Đình Trọng
22-9-2025
Tiengdan

1. Có hai điều cần khẳng định ngay.

Một là hư cấu là một quyền năng lớn lao, cao cả của nghệ thuật. Không có hư cấu sẽ không có nhiều tác phẩm nghệ thuật kinh điển.

Hiện thực không hề có con khỉ có phép thần thông biến hoá nhưng hư cấu đã tạo ra Tôn Ngộ Không đi mây về gió, biến hoá như hồn ma bóng quỉ. Không có hư cấu, không có Tôn Ngộ Không, không có Tây Du Ký bất hủ.

Không có hư cấu, không có Don Quixote, không có hình tượng hiệp sĩ trung cổ lênh khênh trên con ngựa gầy guộc, tay cầm giáo dài lao vào chiến đấu với cánh quạt cối xay gió. Hình tượng đã khắc vào tâm trí con người từ Âu sang Á hơn bốn trăm năm qua và sẽ còn mãi trong kho tàng văn hoá nhân loại.

Đó là hư cấu nghệ thuật. Hư cấu nghệ thuật nâng cao tính người, năng cao phẩm giá con người, nâng con người lên những giá trị thẩm mỹ cao cả.

Hai là thời chiến tranh, lại trong thể chế độc đảng độc tài, dù muốn hay không người làm nghệ thuật không thể thoát khỏi thân phận là công cụ trên mặt trận văn hoá, tư tưởng, công cụ tuyên truyền của thể chế độc tài nơi mình đang sống. Người làm nghệ thuật phải hư cấu theo đòi hỏi của tuyên truyền chính trị. Vì vậy hình tượng hư cấu bí thư cộng sản Thuận ở bờ Nam sông Bến Hải bị lính miền Nam trói vào cột, chất củi thiêu sống trong phim Vĩ Tuyến 17 Ngày Và Đêm rất phản mỹ cảm vẫn được xã hội dễ dàng chấp nhận.

Tiểu thuyết Hòn Đất hư cấu ra tên sĩ quan quân đội miền Nam tên Xăm ác ôn đến mức bắt được Việt Cộng liền mổ bụng, moi gan, nổi lửa xào gan Việt Cộng làm mồi nhậu. Hãm hiếp phụ nữ rồi cắt vú, lấy ly hứng máu hoà với rượu, say sưa nhậu máu người. Thứ văn chương hư cấu tạo ra nhân vật mất tính người, phản thẩm mỹ như vậy vẫn được xã hội sống trong tuyên truyền áp đặt chấp nhận, được đưa vào sách giáo khoa giáo dục lý tưởng thẩm mỹ cho lớp lớp thế hệ trẻ!

Đó là hư cấu tuyên truyền. Hư cấu tuyên truyền tạo ra thứ nghệ thuật phản nghệ thuật, phản thẩm mỹ, phá hoại thẩm mỹ xã hội, đầu độc cả xã hội.

Chiến tranh qua rồi. Những đòi hỏi khắc nghiệt của thể chế độc tài thời chiến tranh qua rồi. Đòi hỏi người làm nghệ thuật phải đánh mất mình, phải gồng mình lên làm nghĩa vụ thần dân không còn gay gắt nữa và người làm nghệ thuật đích thực cũng không thể cam tâm, an phận mãi mãi là thần dân, là công cụ tuyên truyền của quyền lực chính tri. Chiến tranh vừa kết thúc, nhà văn Nguyễn Minh Châu liền viết ngay Lời Ai Điếu cho thứ văn chương minh hoạ cho chính trị. Viết lời cay đắng giã từ thứ văn chương minh hoạ cho quyền lực.

Người làm nghệ thuật phải trở về con người công dân, nhận lấy trách nhiệm công dân với xã hội. Người làm nghệ thuật đích thực, nghệ sĩ chân chính phải tự giải phóng mình thoát khỏi thân phận công cụ của chính trị, của quyền lực, trở về với thiên chức của nghệ thuật là phát hiện ra cái Đẹp trong con người nhân loại, phát hiện ra cái Đẹp trong cuộc sống và sáng tạo ra cái Đẹp cho cuộc sống. Cái Đẹp căn cốt nhất, cái Đẹp vĩnh hằng trong con người nhân loại làm nên tính Người là tình yêu. Yêu thiên nhiên. Yêu cuộc sống. Yêu thương con người.

2. Xin có đôi dòng để thấy cuộc chiến tranh Việt Nam 1960 – 1975 thực sự là cuộc nội chiến Nam — Bắc tương tàn, cuộc nội chiến do thế cuộc xô đẩy người Việt cùng bọc trăm trứng của Mẹ Âu Cơ, cùng dòng giống Lạc Việt, cùng là những tâm hồn và trí tuệ sáng tạo ra nền văn minh sông Hồng rực rỡ lại bị chia tách thành hai thế lực thù hận nhau, bắn giết nhau!

Hiệp định Genève 1954 đã xác định hai chính quyền Việt Nam cùng chính danh như nhau, chia nhau trách nhiệm quản trị hai phần lãnh thổ Việt Nam. Chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, VNDCCH, quản trị lãnh thổ phía Bắc vĩ tuyến 17. Chính quyền Việt Nam Cộng Hoà, VNCH, quản trị lãnh thổ còn lại phía Nam. Ngày 20.7.1956, hai chính quyền cùng tổ chức tổng tuyển cừ để người dân hai miền bầu chọn một chính quyền chung, thống nhất lại đất nước.

Nhưng thay vì tổng tuyển cử để người dân bầu chọn một chính quyền chung của cả nước thì cả hai chính quyền quản trị hai miền Nam Bắc Việt Nam lại ráo riết gây dựng lực lượng bạo lực loại bỏ nhau để độc chiếm cả lãnh thổ Việt Nam. Những người cộng sản nằm vùng ém lại trong tỉnh uỷ Bến Tre đã gậy dựng lực lượng du kích vũ trang khắp xóm làng cả tỉnh và ngày 17.1.1960 tỉnh uỷ Bến Tre phát lệnh cho du kích ba xã Định Thuỷ, Phước Hiệp, Bình Khánh huyện Mỏ Cày đồng loạt nổ súng chống lại chính quyền nhà nước VNCH.

Tiếng súng du kích Bến Tre chống lại chính quyền VNCH ngày 17.1.1960 đi vào lịch sử đảng cộng sản Việt Nam là tiếng súng đồng khởi theo nghị quyết 15/1959 của trung ương đảng cộng sản Việt Nam, nghị quyết cách mạng bạo lực giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trong thể chế độc đảng, độc tài cộng sản. Tiếng súng đồng khởi Bến Tre ngày 17.1.1960 đi vào trang sử Việt Nam đau thương là tiếng súng mở đầu cuộc nội chiến Nam Bắc Việt Nam 1960 – 1975!

Để giành chính nghĩa, giành lẽ phải, huy động được sức mạnh của nền văn minh sông Hồng, chính quyền cộng sản VNDCCH miền Bắc, những người phát động cuộc nội chiến tương tàn tự nhận là yêu nước, tự trao cho mình sứ mệnh cứu nước, vu cho chính quyền chính danh VNCH là bán nước, là nguỵ quyền, nguỵ quân và người Việt sống ở lãnh thổ phía Nam cầm súng bảo vệ chính quyền chính danh của mình, bảo vệ cuộc sống bình yên của mình bị bộ máy tuyên truyền của chính quyền miền Bắc chụp cái mũ “tay sai bán nước”!

Từ đồng khởi Bến Tre, nội chiến lan rộng đẩy chính quyền chính danh VNCH cận kề vực thẳm sụp đổ. Mùa hè năm 1965 nước Mỹ và nhiều đồng minh của VNCH phải gấp gáp đổ hơn nửa triệu quân vào lãnh thổ VNCH duy trì sự sống còn của nhà nước chính danh VNCH, bảo vệ thể chế tự do, dân chủ của người dân VNCH.

Quân Mỹ và đồng mình đổ vào VNCH bản chất không phải là đội quân xâm lược như quân Minh, quân Thanh phương Bắc, như quân Pháp thế kỷ 19 mà chỉ là đội quân chữa cháy, đội quân tình thế nhất thời. Chính quyền chính danh VNCH qua cơn chao đảo, nước Mỹ liền có ngay đề án rút quân ra khỏi cuộc nội chiến Việt Nam bằng Chương trình Việt Nam hoá chiến tranh (Vietnamization plan).

Thực hiện Vietnamization plan đến 30.6.1970 lính Mỹ chiến đấu trên bộ đã rút hết khỏi lãnh thổ VNCH. Đến 31.12.1971 cũng không còn lính Mỹ chiến đấu trên sông, trên không, trên biển thuộc lãnh thổ VNCH. Quân Mỹ chi làm cố vấn ở cấp chiến dịch và chi viện tối đa phi pháo trong phần còn lại cuộc nội chiến Việt Nam để bảo vệ sự sống còn của nhà nước chính danh VNCH.

Từ sau 30.6.1970 cuộc chiến tranh Việt Nam lại trở về nguyên dạng từ khởi đầu là cuộc nội chiến. Cuộc chiến giữa những đứa con tội nghiệp của Mẹ Âu Cơ! Người Việt lính miền Bắc và người Việt lính miền Nam lại xả đạn vào đầu, vào ngực nhau.

3. Sau 5 năm đôi co, đến năm 1972 cuộc mặc cả ở Paris giữa hai phía trong cuộc nội chiến Việt Nam cũng phải đi đến thoả thuận ngừng chiến, thoả thuận tách hai khối thuốc nổ của hai lực lượng đối kháng ra hai vùng lãnh thổ riêng biệt. Cuộc đôi co về lí lẽ ở Paris kéo dài từ năm 1968 đến năm 1972 đã chuyển sang đôi co về phân chia lãnh thổ cho hai khối thuốc nổ ở Nam Việt Nam.

Chính quyền kháng chiến ở miền Nam với danh xưng Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam ra đời từ năm 1969 do chính quyền VNDCCH miền Bắc dựng lên đến 1972, vẫn lẩn lút trong những căn hầm chìm sâu trong lòng đất, dưới tán rừng Tây Ninh. Vẫn chỉ là cái bóng, chỉ có trong tuyên truyền không có thực trên lãnh thổ Việt Nam.

Để chính quyền kháng chiến miền Nam có chỗ đứng dưới mặt trời, có tiếng nói mạnh mẽ đòi hỏi lãnh thổ trong cuộc mặc cả ở Paris, Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam cần có chỗ đứng công khai như một thủ đô hành chính. Với những người phát động cuộc nội chiến Nam Bắc thì chỗ đứng lí tưởng của chính phủ kháng chiến miền Nam Việt Nam là thị xã An Lộc tỉnh Bình Long, liền kề căn cứ Tây Ninh. Và An Lộc liền trở thành điểm quyết chiến chiến lược năm 1972.

Đã thành truyền thống, mùa khô cuối năm mới là mùa lên đường chiến dịch của quân đội cách mạng. Nhưng năm 1972, truyền thống đó đã bị phá bỏ. Ngay từ đầu năm 1972 những sư đoàn đầy đủ quân số, đầy đủ trang bị từ miến Bắc rầm rập tràn qua vĩ tuyến 17 đổ vào miền Nam như thác lũ mùa bão giông. Ngay từ mùa hè 1972, mưa đạn, sấm sét pháo xối xả dội xuống An Lộc, bùng nổ ở Kon Tum, trùm xuống khắp tỉnh Quảng Trị.

Ba mươi lăm ngàn quân chính quy miền Bắc khép chặt lưới lửa quanh thị xã An Lộc nhỏ bé, đìu hiu, khuất nẻo giữa rừng già biên giới chỉ vẻn vẹn mười lăm ngàn dân. Tiếng súng rát rạt rộ lên ở Kon Tum, ở Quảng Trị chỉ để thu hút, phân tán lực lượng quân miền Nam, không để quân miền Nam tập trung sức mạnh vào An Lộc.

Phải lôi kéo một lực lượng lớn quân tinh nhuệ miền Nam ra mảnh đất cực Bắc lãnh thổ miền Nam, mặt trận Quảng Trị còn là phương án dự phòng của An Lộc. Dự phòng khi quân miền Bắc không giành được thị xã An Lộc thì có thị xã Quảng Trị thay thế. Vì vậy, lính miền Bắc đã chiếm được thị xã Quảng Trị phải lấy máu giữ bằng được thị xã Quảng Trị. Quân miền Nam cũng không thể để quân miền Bắc mở toang cánh cửa ở cửa ngõ phía Bắc lãnh thổ miền Nam. Và thị xã Quảng Trị nhỏ bé trở thành cối xay thịt khổng lồ nghiền xương thịt lính người Việt ở cả hai phía suốt 81 ngày đêm cuối hè 1972!

Kết quả chiến dịch 1972, dù tốn rất nhiều máu, thí không tiếc mạng lính, quân miền Bắc vẫn thất bại hoàn toàn ở cả ba mặt trận lớn. Không chiếm được thị xã An Lộc. Không giữ được thị xã Kon Tum và thị xã Quảng Trị, Thị xã An Lộc, thị xã Kon Tum, thị xã Quảng Trị trở thành ba mảnh đất đẫm máu người Việt mang hai sắc lính trong chiến dịch 1972 và đẫm máu nhất là mảnh đất thị xã Quảng Trị. Thị xã Quảng Trị cuối hè năm 1972 còn đẫm máu người Việt hơn cả Huế Mậu Thân 1968!

4. Cùng với Huế Mậu Thân 1968, Quảng Trị 81 ngày đêm cuối hè 1972 là nỗi đau muôn đời của giống nòi Việt Nam. Không có gì để tự hào khi hai sắc lính cùng là người Việt xả đạn vào nhau, xả cái chết cho nhau, xả nỗi đau thương cho những người Mẹ Việt Nam.

Không thấy nỗi đau của giống nòi Việt Nam, không thấy nỗi đau của những người Mẹ ở cả hai miền Nam Bắc mất con ở Quảng Trị năm 1972, mất con trong cuộc nội chiến 1960 – 1975, cả tiểu thuyết Mưa Đỏ, cả phim truyện Mưa Đỏ tái hiện nỗi đau Quảng Trị 1972 đều với cảm hứng anh hùng ca. Tráng ca cuộc chiến tranh người Việt giết người Việt. Cao cả, lẫm liệt người lính miền Bắc. Vu tội, thấp hèn hoá người lính miền Nam.

Mưa Đỏ hư cấu chi tiết người lính miền Nam đổ xăng thiêu sống tù binh lính miền Bắc không chỉ thấp hèn hoá người Việt lính miền Nam mà thấp hèn hoá chính dân tộc Việt Nam và khắc sâu hận thù với người Việt mang sắc lính miền Nam, chia rẽ, li tán người Việt miền Bắc với người Việt miền Nam trong lòng dân tộc Việt Nam.

Anh hùng ca cuộc nội chiến người Việt bắn giết người Việt do những người cộng sản phát động, những người viết sách và làm phim Mưa Đỏ vẫn chưa thoát khỏi thân phận công cụ của chính trị, của tuyên truyền. Vẫn là những người làm nghệ thuật không phải với tư cách nghệ sĩ mà chỉ là công cụ của tuyên truyền, của quyền lực! Nhà văn công cụ của tuyên truyền dù có xuất bản cả trăm tiểu thuyết với hàng ngàn trang sách vẫn nhỏ bé thảm hại trong hiện tại và hư vô trong thời gian!

No comments:

Post a Comment