Cuộc gặp gỡ giữa Mỹ và Việt Nam (Phần 6)Tác giả: Kenneth T. Young
Trúc Lam chuyển ngữ
24-9-2025
Tiengdan
Tiếp theo phần 1 — phần 2 — phần 3 — phần 4 và phần 5
Mười năm thành công và thất bại
Trong giai đoạn 1955-1960, chính sách cải cách dân tộc của Mỹ đã đạt được những tiến bộ đáng kể về kinh tế và xã hội ở miền Nam Việt Nam.
Hồ sơ rất rõ ràng và thuyết phục về mặt vật chất. Thực tế là chính sách “nam châm” của Hoa Kỳ đã hoạt động rất hiệu quả trong những năm đó. Hà Nội không thể chịu đựng được lợi thế so sánh về tiến bộ ở miền Nam. Chính sách “nam châm” này tất yếu đã thúc đẩy chiến dịch của Hà Nội nhằm dập tắt chủ nghĩa dân tộc ở miền Nam Việt Nam bằng chiến tranh du kích ở nông thôn. Chính tại thời điểm này trong cuộc hành trình của Mỹ ở Việt Nam, sự thất bại trong quan hệ đối tác chính trị và quân sự của các quan chức Việt – Mỹ đã làm suy yếu các thành tựu kinh tế xã hội đáng kể của họ trong những năm đó và vô tình tạo điều kiện cho chiến dịch bạo lực của Cộng sản.
Việc Diệm từ chối tổ chức bầu cử địa phương để bầu ra các trưởng thôn vào năm 1956 có lẽ đã bắt đầu làm mất đi sự ủng hộ của ông và góp phần gây ra sự thất vọng và thờ ơ của người dân nông thôn. Các đặc vụ Cộng sản đã khéo léo lợi dụng điều này. Vào thời điểm đó, chúng tôi rất lo ngại việc Diệm phản đối tổ chức bầu cử ở thôn xóm, điều cho phép nông dân tự bầu ra các nhà lãnh đạo trong các công đoàn và hội đồng địa phương.
Ngoài vấn đề địa phương này, việc Diệm từ chối mở rộng chính quyền với những người theo chủ nghĩa dân tộc Việt Nam được kính trọng, có năng lực và tận tụy, việc ông không thu hút thế hệ trẻ có trình độ học vấn và chuyên môn, và việc ông không xây dựng được một phong trào dân tộc chủ nghĩa quần chúng trên khắp miền Nam Việt Nam, đã làm suy yếu và thu hẹp cơ sở ủng hộ của ông vào năm 1961. Ông trở nên bảo thủ và độc tài hơn khi bạn bè nài nỉ ông trở thành một nhà lãnh đạo dân tộc theo chủ nghĩa tự do và dân túy hơn. Không có sự đồng thuận giữa mọi người – không có sự hợp tác – trong chính trị hay cải cách.
Một sai lầm nghiêm trọng khác trong giai đoạn 1955-1960 là việc Mỹ không hiểu và dự đoán được cuộc chiến tranh khủng bố và nổi dậy của Cộng sản trong cộng đồng nông thôn, điều này càng dễ xảy ra hơn khi “cuộc tổng tuyển cử Geneva” không diễn ra vào năm 1956. Vụ sát hại các quan chức làng xã báo hiệu sự khởi đầu của cái gọi là cuộc chiến tranh Ấn Độ – Trung Quốc lần thứ hai vào năm 1957. Tất cả chúng ta đều thấy điều này sắp xảy ra. Chúng ta, những người Mỹ, đã khăng khăng giữ nguyên mô hình viện trợ kinh tế thông thường và sức mạnh chính thống. Cả hai đều là một sự bất tương xứng nghiêm trọng ở Việt Nam. Thêm một trường hợp về “sự mù quáng của tổ tiên”.
Chính quyền Sài Gòn dưới thời Diệm và người Mỹ đã không thực sự nghiêm túc hoặc hiệu quả trong việc triển khai viện trợ “từ dưới lên” cho sự tham gia của làng xã và huy động nông dân để bảo vệ lợi ích của chính họ. “Khoảng cách chính phủ” và “khoảng cách an ninh” chồng chéo lên nhau trong khoảng trống nông thôn thờ ơ và không có khả năng tự vệ mà kỹ thuật chiến tranh nông thôn của Cộng sản đã khéo léo khai thác và lấp đầy một cách hiệu quả trong sáu năm qua. Cải cách và thay đổi diễn ra theo cách truyền thống, từ một chế độ chính quyền gia trưởng, vô cảm, lỗi thời, tiếp tục tạo ra “khoảng cách chính quyền” giữa thành thị và nông thôn, giữa người bị cai trị và người cai trị. Đó là vấn đề truyền thống của châu Á. Ở Việt Nam, khoảng cách thờ ơ và ngờ vực ở các làng quê vẫn chưa được lấp đầy trong những năm 1955-1960. Những tiến bộ vật chất đã đến với người dân nông thôn trong giáo dục, y tế và nông nghiệp “từ trên xuống”. Nhưng tinh thần chính trị thì không “từ dưới lên”. Sự bảo vệ và an ninh, thước đo của dân làng để quyết định ai nắm quyền và ai phải trung thành, đã “chạm đáy”. Sự bảo vệ ngày càng ít đi khi Cộng sản bắt đầu tiêu diệt chính quyền làng xã và tất cả những người có liên hệ với Sài Gòn. Dân làng phải cúi đầu trước súng đạn và dao găm.
Mục tiêu quân sự của Mỹ là tạo ra một quân đội Việt Nam giống như quân đội Nam Hàn mà chúng ta đã xây dựng để bảo vệ vĩ tuyến 38 và đường phân định ở Triều Tiên. Mục tiêu ở Việt Nam là mười sư đoàn và hai quân đoàn, theo hình ảnh của giới cầm quyền Mỹ, được triển khai dọc theo và phía nam vĩ tuyến 17. Đó là huyền thoại về vĩ tuyến, nhưng vĩ tuyến không tồn tại vì hai lý do – và hiện tại cũng không tồn tại. Cam kết của chúng ta theo Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) đã đặt một chiếc ô dù với sức mạnh không quân và hải quân hùng mạnh lên Việt Nam để ngăn chặn một cuộc xâm lược thông thường có thể nhìn thấy qua đường phân định, và sức mạnh của chúng ta đã ngăn chặn một cuộc xâm lược rõ ràng qua biên giới đã được phân định.
Thứ hai, không giống như Triều Tiên, Việt Nam có đường biên giới trên bộ dài với Lào và Campuchia, cùng một bờ biển dài, rộng mở, nên dễ bị tấn công. Nhiều đảng viên Cộng sản “gộc” của Nam Việt Nam đã ở lại miền Nam hoặc di cư ra Bắc. Trong bốn năm quan trọng, chính phủ Hoa Kỳ đã không thể đối phó với tình thế tiến thoái lưỡng nan “xâm lược bằng cách rò rỉ” này để huấn luyện các lực lượng chống du kích bên ngoài hoặc thậm chí trong quân đội Việt Nam. Nhiệm vụ được giao cho phái bộ viện trợ dân sự và bộ phận huấn luyện cảnh sát, nhưng cả hai đều không được trang bị đầy đủ để đương đầu với thách thức này.
Trong những năm 1959-1960, Hà Nội đẩy mạnh chương trình cách mạng bằng cách giết người để chiếm miền Nam và đã thành công vào năm 1961, bởi vì “thỏi nam châm” đã phát huy tác dụng. Hà Nội nhận ra rằng, đến năm 1959, Diệm đã đi đúng hướng trong việc “củng cố” miền Nam, như các ấn phẩm Cộng sản đã nêu. Sau đó, Hà Nội công khai tổ chức ba công cụ để tiến hành một “cuộc chiến tranh nhân dân” nhằm chống lại cách mạng dân tộc: “Mặt trận Giải phóng Dân tộc”, “Đảng Nhân dân Cách mạng” và “Việt Cộng”. Hà Nội đẩy nhanh việc ám sát hàng ngàn viên chức chính quyền và làng xã, đồng thời gia tăng việc di chuyển về phía Nam qua Lào của những cựu du kích Việt Minh, những người đã được tập hợp lại ở miền Bắc sau năm 1954.
Đây không phải là một cuộc nổi dậy thật sự của người dân bản địa hay cuộc nổi dậy của nông dân, mặc dù có nhiều bất bình ở nông thôn. Khi Tổng thống Kennedy nhậm chức, ông phải đối mặt với một thách thức khủng bố và chiến tranh du kích đang gia tăng nhanh chóng và vô cùng nghiêm trọng ở Nam Việt Nam, điều này đe dọa Đông Nam Á. Khi được hỏi hồi năm 1963 rằng, liệu ông có nghi ngờ “thuyết domino” hay không, ông trả lời rằng ông tin vào điều đó và tuyên bố:
“Trung Quốc quá rộng lớn, sừng sững ngay bên kia biên giới, đến nỗi nếu Nam Việt Nam mất đi, điều đó không chỉ mang lại cho họ một vị trí địa lý thuận lợi hơn cho một cuộc tấn công du kích vào Malaysia, mà còn tạo ấn tượng rằng làn sóng tương lai ở Đông Nam Á chính là Trung Quốc và những người Cộng sản“.
Ông đã tái khẳng định sự ủng hộ của Hoa Kỳ dành cho Diệm và tái khẳng định khái niệm chiến lược ở Đông Nam Á sau khi phân tích kỹ lưỡng “vấn đề Diệm” và lợi ích chiến lược của chúng ta tại Việt Nam, cũng như Đông Nam Á.
Trong chuyến thăm Đông Nam Á hiệu quả vào tháng 5 năm 1961, Phó Tổng thống Johnson đã nỗ lực hết sức để thuyết phục Diệm hành động thật sự nhằm thúc đẩy quyền và nguyện vọng chính đáng của người dân Việt Nam. Ông cũng đề xuất thực hiện các biện pháp kinh tế và xã hội mới ở các vùng nông thôn để song hành với nỗ lực chống du kích, giúp người dân có thể sớm được hưởng lợi từ việc khôi phục luật pháp và trật tự tại các làng mạc của họ.
Phái đoàn Taylor năm 1961 và chính sách của Kennedy về Việt Nam cho rằng, việc cam kết lớn về nguồn lực để hỗ trợ các nỗ lực và trách nhiệm của Việt Nam sẽ không nhất thiết dẫn đến một cuộc chiến tranh với Cộng sản để giữ vững phòng tuyến ở Đông Nam Á. Rõ ràng, Tướng Taylor đã đề xuất với Tổng thống Kennedy về việc triển khai hạn chế lực lượng Hoa Kỳ ở Việt Nam để bảo vệ các cơ sở quan trọng, bảo vệ biên giới Việt – Lào, giải vây cho quân đội Việt Nam và trấn an người dân Việt Nam, điều mà một số người trong chúng tôi đã đề xuất.
Tuy nhiên, Tổng thống Kennedy và một số cố vấn khác quyết định không đưa quân đội Hoa Kỳ vào Việt Nam và Đông Nam Á. Nếu chính phủ Hoa Kỳ đã thực hiện việc sử dụng lực lượng một cách có chọn lọc như vậy vào thời điểm đó, có lẽ chúng ta đã không rơi vào tình cảnh khó khăn như ngày nay. Hoa Kỳ đã để hành lang Lào mở rộng cho quân xâm nhập, cũng như sự tiếp tế của Bắc Việt Nam liên tục và ngày càng mở rộng.
Tình hình bắt đầu thay đổi vào năm 1962 và 1963. Theo nhà báo Úc Wilfred Burchett, người thường có quan điểm Cộng sản, những người Cộng sản Việt Nam thừa nhận rằng 1962-1963 là “năm” của Diệm. Các nhà quan sát khác bấy giờ cũng đồng ý rằng cuộc tấn công của Cộng sản đã bị chặn đứng và đảo ngược. Nó có thể đã sụp đổ nếu một lần nữa sự kết hợp giữa các sai sót về quân sự và chính trị đã xảy ra. Việc thâm nhập từ từ vào Việt Nam từ Lào và đường biển có thể đã giảm đáng kể sau năm 1963 nếu Diệm và em ông không tự hủy hoại chính họ về mặt chính trị.
Diệm, và đặc biệt là em trai ông, đã quá kém cỏi trong việc xử lý phong trào Phật giáo và xa lánh rất nhiều người dân thành thị, đến nỗi họ mất đi quyền lực và mạng sống. Diệm tỏ ra bất lực trong việc giải quyết sự phản kháng hay giải quyết chuyện gia đình. Sự thiếu hiểu biết từ người thân đã hủy hoại người đàn ông cao quý nhưng tốt bụng này, người đã vượt quá vị trí của mình trong lịch sử. “Thỏi nam châm” của người Mỹ và quyền lực của Sài Gòn đã sụp đổ sau vụ ám sát Diệm.
(Còn tiếp)
No comments:
Post a Comment