Saturday, September 27, 2025

Đài Loan vẫn chưa bị bỏ rơi
Nguồn: Philip H. Gordon và Ryan Hass, “Nobody Lost Taiwan”, Foreign Affairs, 22/09/2025
Biên dịch: Viên Đăng Huy
27/09/2025
NghiencuuQT


Trong những năm gần đây, có lẽ không có chủ đề nào trong quan hệ quốc tế thu hút nhiều sự chú ý hơn khả năng Trung Quốc tấn công Đài Loan. Điều này là hoàn toàn có cơ sở: Trung Quốc chưa bao giờ từ bỏ tuyên bố chủ quyền đối với hòn đảo, họ đang tiến hành một trong những đợt tăng cường quân sự lớn nhất trong lịch sử, thường xuyên xâm nhập không phận và vùng biển của Đài Loan, và Chủ tịch Tập Cận Bình đã chỉ đạo quân đội phát triển năng lực để chinh phục Đài Loan vào năm 2027, nếu ông ra lệnh. Đối với bất kỳ ai hoài nghi về một cuộc tấn công như vậy trong thế kỷ 21, cuộc xâm lược Ukraine của Nga vào tháng 2 năm 2022 là một lời nhắc nhở rõ ràng rằng một cuộc chiến tranh lớn để giành lãnh thổ không phải là chuyện của quá khứ. Tổng thống Nga Vladimir Putin đã nắm lấy cơ hội để lấy lại một vùng lãnh thổ mà ông cho là đã đi chệch hướng và đang tuột khỏi tay mình. Sớm hay muộn, ông Tập cũng có thể sẽ cố gắng làm điều tương tự.

NCQT: Play video

Những yếu tố khác cũng góp phần làm gia tăng lo lắng về tương lai của Đài Loan. Ít ai nghi ngờ rằng Trung Quốc sẽ cố gắng dùng vũ lực để chiếm Đài Loan nếu họ cảm thấy các lựa chọn khác để ngăn chặn sự chia cắt vĩnh viễn đã không còn, nhưng Bắc Kinh đặc biệt mong muốn chiếm lấy hòn đảo một cách hòa bình — với nền kinh tế, công nghệ và nguồn nhân lực của hòn đảo vẫn còn nguyên vẹn. Để đạt được mục tiêu đó, Trung Quốc đang sử dụng sự kết hợp của tuyên truyền không ngừng nghỉ, sự thâm nhập và áp lực quân sự để làm suy yếu sự ủng hộ của Mỹ đối với Đài Loan, và thuyết phục người dân Đài Loan rằng họ không có nhiều lựa chọn ngoài việc chấp nhận một thỏa hiệp chính trị công nhận Đài Loan là một phần lãnh thổ có chủ quyền của Trung Quốc.

Hai tháng vừa qua đã làm dấy lên những lo ngại rằng Bắc Kinh đang đạt được tiến bộ trong lĩnh vực này. Các chính trị gia Đài Loan đã làm bùng lên sự chia rẽ phe phái với những lời lẽ tố cáo lẫn nhau làm suy yếu an ninh Đài Loan, đảng cầm quyền của Đài Loan đã thất bại trong việc “bãi nhiệm” các thành viên phe đối lập, gây chia rẽ sâu sắc trong dân chúng, và mức độ ủng hộ dành cho Tổng thống Lại Thanh Đức đang sụp đổ. Trong khi đó, các cuộc đàm phán của Đài Loan với Mỹ trở nên khó khăn hơn. Chính quyền Trump đã từ chối việc quá cảnh thông thường của ông Lại qua Mỹ, hoãn các nỗ lực đạt được thỏa thuận thương mại với Đài Loan, tạm dừng một số đợt giao vũ khí đã được lên kế hoạch và bày tỏ sự chỉ trích gay gắt về chi tiêu quốc phòng của Đài Loan. Washington cũng đã nới lỏng kiểm soát xuất khẩu công nghệ cao đối với Trung Quốc, cho thấy Tổng thống Donald Trump ưu tiên đạt được một thỏa thuận thương mại và cải thiện quan hệ với Bắc Kinh hơn là kiên định ủng hộ Đài Loan. Sự bi quan về tương lai của Đài Loan được thể hiện rõ nhất vào tháng 8, khi một bài báo của một cựu quan chức chính quyền Trump lan truyền rộng rãi ở Đài Loan. Nó có tên là “Đài Loan đã đánh mất Trump như thế nào”.

Những lo ngại về tương lai của Đài Loan là dễ hiểu – nhưng chúng cũng bị thổi phồng. Không giống như nhiều đối tác khác của Mỹ đang lo lắng về tương lai của họ, Đài Loan có những quân bài giá trị để sử dụng. Nội bộ Đài Loan ít chia rẽ hơn nhiều so với những gì nền chính trị hỗn loạn bề ngoài của nó thể hiện, và nền dân chủ cùng xã hội dân sự của nó rất vững mạnh. Đây cũng là nơi có các công nghệ tiên tiến nhất thế giới và nền kinh tế của nó vẫn mạnh mẽ và kiên cường. Chính vì những thế mạnh đó, hòn đảo cuối cùng cũng đang đạt được tiến bộ trong các cải cách quốc phòng và tăng chi tiêu, điều sẽ làm giảm những lỗ hổng trước Trung Quốc ngay cả khi sự hỗ trợ của Mỹ suy yếu. Nếu Đài Loan sử dụng những quân bài đó một cách đúng đắn, nó có thể tiếp tục phát triển – và cản trở các kế hoạch quân sự hoặc chính trị của Trung Quốc.

Tình thế khó khăn

Không ai nên đánh giá thấp mối đe dọa quân sự mà Bắc Kinh gây ra cho Đài Loan, và rất ít người ở Đài Loan làm như vậy. Đặc biệt kể từ mùa hè năm 2022, khi Chủ tịch Hạ viện Mỹ lúc bấy giờ là Nancy Pelosi đến thăm Đài Loan, Trung Quốc đã thiết lập cái mà các chuyên gia gọi là “trạng thái bình thường mới” ở Eo biển Đài Loan. Điều này bao gồm việc các máy bay và tàu hải quân vượt qua đường trung tuyến của eo biển thường xuyên hơn, nhiều cuộc tập trận bao vây bằng đạn thật để mô phỏng kịch bản phong tỏa, các vụ thử tên lửa chưa từng có tiền lệ bay qua hòn đảo, và các cuộc xâm nhập thường xuyên vào vùng nhận dạng phòng không của Đài Loan. Trong khi đó, và phần lớn là để răn đe Mỹ không can dự trực tiếp vào một cuộc xung đột về Đài Loan, Bắc Kinh đã mua thêm nhiều tên lửa siêu thanh và chống hạm cũng như tên lửa đạn đạo, tăng gấp đôi kho vũ khí hạt nhân trong 5 năm qua và tăng đáng kể quy mô và năng lực của hải quân.

Nhưng Đài Loan đã không dậm chân tại chỗ. Trong vài năm qua, giới lãnh đạo chính trị và quân sự của Đài Loan đã đồng ý với một chiến lược phòng thủ bất đối xứng và điều chỉnh học thuyết quân sự, cơ cấu lực lượng và các quyết định chi tiêu của quân đội Đài Loan xung quanh nó. Thời kỳ đầu tư quá mức vào các năng lực quân sự đắt tiền, cao cấp để đối đầu với các lực lượng Trung Quốc tại đường trung tuyến của Eo biển Đài Loan phần lớn đã qua. Hiện tại, Đài Loan đang tập trung nguồn lực vào việc biến hòn đảo thành một con nhím – khó chạm vào và không thể nuốt trôi. Các đổi mới quốc phòng của Đài Loan cũng đang được tăng tốc nhờ các bài học rút ra từ sự kháng cự của Ukraine trước Nga. Điều này bao gồm việc phát động một chiến dịch kiên cường toàn xã hội, mô phỏng các kịch bản thực tế về các cuộc tấn công quân sự của Trung Quốc trong huấn luyện quốc phòng, mở rộng sự tham gia của công chúng vào phòng thủ dân sự, và mô phỏng các phản ứng với các cuộc tấn công mạng và các mối đe dọa vùng xám. Năm 2022, Đài Loan đã thành lập Cơ quan Tổng động viên Quốc phòng để tích hợp tốt hơn lực lượng dự bị cho quốc phòng. Các nhà lãnh đạo quốc phòng của Đài Loan cũng đang huấn luyện và trao quyền cho các chỉ huy chiến trường để chủ động thay vì chờ đợi các chỉ thị tập trung.

Đài Loan đang loại bỏ các hệ thống cũ, chẳng hạn như máy bay chiến đấu và xe tăng thời Chiến tranh Lạnh, và thay vào đó triển khai nhiều năng lực hiện đại, chẳng hạn như hệ thống pháo phản lực phóng loạt HIMARS và hệ thống phòng không NASAMS 3, những hệ thống đã tỏ ra hiệu quả ở Ukraine. Các công ty Mỹ và các tổ chức Đài Loan cũng đang theo đuổi các quan hệ đối tác mới để kết hợp đổi mới quốc phòng của Mỹ với ngành sản xuất tiên tiến đẳng cấp thế giới của Đài Loan. Việc sản xuất vũ khí chung đang mở rộng nhanh chóng. Các công ty công nghệ quốc phòng tiên tiến đang làm việc với Đài Loan để mở rộng khả năng tiếp cận của hòn đảo với các năng lực tiên tiến, chẳng hạn như đạn tuần kích, thủy lôi, hệ thống drone, phương tiện không người lái trên mặt nước, phương tiện không người lái dưới nước, và thiết bị tác chiến điện tử và thông tin liên lạc. Cũng có sự đồng thuận trên toàn bộ các chính đảng của Đài Loan về việc tăng chi tiêu quốc phòng: ông Lại đã cam kết nâng chi tiêu quốc phòng lên hơn 3% GDP vào năm tới và hơn 5% vào năm 2030.

Đài Loan phải thực hiện những cam kết này, và cần có thêm những cải cách, với tính cấp bách cao hơn, để củng cố khả năng sẵn sàng phòng thủ của mình. Nhưng nó đang đi đúng hướng.

Mỹ và các đối tác của mình cũng đã thực hiện các bước để cản trở các kế hoạch quân sự của Trung Quốc đối với Đài Loan. Trong những năm gần đây, lần đầu tiên, Washington đã cung cấp viện trợ quân sự cho Đài Loan bằng cách trực tiếp lấy từ kho vũ khí hiện có của Mỹ – một phương pháp trước đây chỉ dành cho việc hỗ trợ khẩn cấp cho các đồng minh trong cuộc xung đột đang diễn ra. Và họ đã cho phép Đài Loan tiếp cận nguồn tài chính quân sự nước ngoài, cung cấp các khoản tài trợ và cho vay để Đài Loan có thể mua thiết bị quốc phòng do Mỹ sản xuất. Mỹ và các đối tác của mình – bao gồm Úc, Nhật Bản, Philippines, Singapore và Việt Nam – cũng đang thúc đẩy một “chiến lược phân tán” trên khắp Thái Bình Dương để hỗ trợ việc phô trương sức mạnh từ nhiều địa điểm, và Mỹ đang bố trí trước đạn dược và các năng lực bất đối xứng khác tại các căn cứ trong khu vực để tăng cường khả năng răn đe. Nhiều đối tác khu vực này cũng đang xây dựng các năng lực phô trương sức mạnh tiên tiến của riêng họ và hợp tác chặt chẽ hơn với Đài Bắc trong việc duy trì tự do hàng hải và an ninh hàng hải.

Cuối cùng, mặc dù sức mạnh quân sự của Bắc Kinh rất đáng gờm và đang phát triển, nhưng nó vẫn phải đối mặt với những thách thức nội bộ quan trọng. Nhiều quan chức quân sự hàng đầu của Trung Quốc đã bị thanh trừng trong nhiệm kỳ thứ ba của ông Tập với cáo buộc tham nhũng hoặc không trung thành. Như Jonathan Czin và John Culver đã viết trên tạp chí Foreign Affairs, ông Tập không có đội quân mà ông muốn và dường như không tin tưởng rằng đội quân mà ông có sẽ thực hiện các chỉ thị của ông.

Một thế cân bằng mới

Đài Loan cũng chuẩn bị cho một chiến dịch thâm nhập của Trung Quốc tốt hơn so với nhiều người nhận ra – bao gồm cả những người ở Bắc Kinh. Trung Quốc đang dành nhiều nguồn lực đáng kể để gây ảnh hưởng đến dư luận ở Đài Loan, bao gồm thông qua các cuộc tấn công mạng, tuyên truyền, mua lại các công ty truyền thông Đài Loan và sử dụng các nền tảng mạng xã hội như TikTok – tất cả đều được thiết kế để lôi kéo những người dân Đài Loan có thiện cảm với Bắc Kinh để thúc đẩy việc thống nhất cuối cùng. Mục tiêu của Trung Quốc là khiến người dân Đài Loan đi đến kết luận rằng việc chống cự là vô ích và do đó đồng ý thống nhất. Nhưng có rất ít bằng chứng cho thấy những nỗ lực này đang có hiệu quả.

Lý do rất đơn giản. Rất ít người ở Đài Loan dễ bị ảnh hưởng bởi tuyên truyền của Trung Quốc. Ngay cả khi họ bị chia rẽ theo phe phái, công chúng Đài Loan vẫn thống nhất và kiên định trong sự phản đối mạnh mẽ đối với chủ nghĩa cộng sản và mong muốn bảo vệ chủ quyền và các chuẩn mực dân chủ của Đài Loan. Trên thực tế, Bắc Kinh càng trở nên hung hăng hơn đối với Đài Loan, thì Bắc Kinh càng đẩy lùi chứ không phải thu hút người dân Đài Loan. Như Lev Nachman và Wei-Ting Yen đã viết trên Foreign Affairs, “Nhiều nỗ lực của Bắc Kinh nhằm hù dọa công dân Đài Loan gây ra sự khó chịu hơn là sự hoảng loạn”.

Theo các cuộc thăm dò dư luận gần đây, hơn 90% người dân Đài Loan cảm thấy mình là “người Đài Loan” (63%) hoặc “vừa là người Đài Loan vừa là người Trung Quốc” (30%) trái ngược với chưa đến 5% cảm thấy mình là “người Trung Quốc”. Đại đa số ủng hộ việc duy trì hiện trạng qua eo biển, so với chưa đến 8% muốn thống nhất với Trung Quốc “càng sớm càng tốt” (2%) hoặc thậm chí cuối cùng (6%), khiến Bắc Kinh không có nhiều cơ hội để thực hiện ý đồ của mình. Chắc chắn những nỗ lực thâm nhập của Trung Quốc kết hợp với áp lực quân sự – chẳng hạn như các cuộc tấn công mạng hoặc một cuộc phong tỏa hải quân dưới vỏ bọc thực thi hải quan – sẽ là một thách thức lớn đối với Đài Loan, nhưng những biện pháp như vậy cũng có thể dễ dàng gây ra sự thù địch đối với Bắc Kinh hơn là làm suy yếu quyết tâm của người Đài Loan.

Mức độ phân cực trong chính trị Đài Loan cũng có thể bị phóng đại. Có những ví dụ về những lời lẽ đáng lo ngại, bao gồm việc ông Lại gần đây ám chỉ đến việc loại bỏ “tạp chất” khỏi hệ thống chính trị của Đài Loan và việc một chính trị gia đối lập so sánh một số hành động của ông Lại với “những hành động của Đức Quốc xã”. Nhưng hãy lùi lại một bước và chính trị của Đài Loan dường như khá đồng thuận về các vấn đề lớn. Không một đảng nào trong ba chính đảng chính của Đài Loan – Đảng Dân chủ Tiến bộ của ông Lại, Quốc dân đảng đối lập và Đảng Nhân dân Đài Loan – ủng hộ việc thống nhất với Bắc Kinh. Tất cả đều ủng hộ dân chủ và chống cộng sản, tất cả đều muốn duy trì quan hệ với Mỹ, và không ai ủng hộ việc độc lập ngay lập tức. Sự khác biệt chính giữa các đảng là về cách tốt nhất để duy trì hiện trạng eo biển, chứ không phải là có nên làm như vậy hay không. Ba đảng đồng ý về hầu hết các vấn đề trong nước, ngoại trừ năng lượng hạt nhân và án tử hình. Về hầu hết các vấn đề, sự khác biệt của họ chủ yếu là về cá tính hơn là về ý thức hệ.

So với quá khứ của Đài Loan và các nền dân chủ tiên tiến khác ngày nay, chính trị của Đài Loan khá ôn hòa. Thay vì chìm vào sự chia rẽ phe phái ngày càng sâu sắc, Đài Loan có thể đang hướng tới một thế cân bằng chính trị mới. Các nhà lãnh đạo của cả ba đảng lớn đều thừa nhận rằng họ sẽ cần thỏa hiệp để đưa ra một ngân sách quốc phòng đặc biệt, điều mà tất cả họ đều coi là rất quan trọng đối với an ninh của Đài Loan. Dường như cũng có sự đồng thuận giữa các đảng rằng bây giờ không phải là lúc để thử thách sự khoan dung toàn cầu đối với nền độc lập của Đài Loan mà là lúc để thể hiện Đài Loan như một bên đóng góp vào sự ổn định khu vực.

Một ván bài thắng

Với những gì đang bị đe dọa đối với Đài Loan, bao gồm cả sự sống còn, thì sự tự mãn không phải là một lựa chọn. Để duy trì lối sống của mình trước sức mạnh quốc gia đang mở rộng nhanh chóng của Trung Quốc, các nhà lãnh đạo Đài Loan sẽ cần phải hành động với sự khẩn cấp và mục đích chung để củng cố những lỗ hổng. Một con đường vẫn đang mở ra để họ làm như vậy.

Đầu tiên và quan trọng nhất, các nhà lãnh đạo của Đài Loan cần phân bổ nguồn lực đầy đủ cho quốc phòng và khả năng phục hồi quốc gia của họ. Điều này sẽ đòi hỏi sự thỏa hiệp giữa các nhà lãnh đạo để ưu tiên tăng lương cho binh lính chuyên nghiệp và kéo dài thời gian phục vụ của lính nghĩa vụ và những người ủng hộ việc triển khai các năng lực quân sự mới. Đài Loan cũng sẽ cần đầu tư thêm vào vũ khí tấn công cơ động, chẳng hạn như bệ phóng tên lửa di động, tên lửa phòng không vác vai và hệ thống phòng không. Các hệ thống không người lái và thủy lôi nhỏ, dùng một lần có thể bổ sung một lớp phòng thủ quan trọng, trong khi các mạng lưới thông tin liên lạc dự phòng và cơ sở hạ tầng an ninh mạng được củng cố sẽ tăng cường khả năng phục hồi. Việc bố trí trước đạn dược, cũng như dự trữ năng lượng, y tế và lương thực, cũng có thể giúp các nhà lãnh đạo Trung Quốc từ bỏ ý nghĩ rằng Đài Loan có thể bị chiếm một cách nhanh chóng và với chi phí thấp. Tất cả các bước này không chỉ quan trọng đối với khả năng tự vệ của Đài Loan mà còn giúp bảo vệ Đài Loan khỏi sự chỉ trích của Mỹ rằng họ không tự gánh vác trách nhiệm của mình.

Đài Loan cũng có một lợi thế mà hầu như mọi đối tác khác của Mỹ chỉ có thể mong muốn: sức mạnh kinh tế của nó, có thể đóng vai trò là nền tảng cho an ninh quốc gia. Bằng cách sản xuất khoảng 95% chip bán dẫn tiên tiến nhất thế giới, các công ty của Đài Loan có vị thế độc quyền trong nền kinh tế thế giới. Với cuộc cách mạng AI đang bùng nổ, vai trò trung tâm của Đài Loan đối với thị trường toàn cầu sẽ chỉ tăng lên. Điều này mang lại cho Đài Loan không gian tài chính để tăng chi tiêu quốc phòng một cách ổn định và trình bày nó như một chiến thắng cho Trump.

Điều đó cũng có nghĩa là các công ty hàng đầu như Công ty Sản xuất Chất bán dẫn Đài Loan (TSMC) có thể đầu tư vào Mỹ mà chính quyền Trump mong muốn mà không ảnh hưởng đến vị thế cạnh tranh của mình. Ngay cả với các khoản đầu tư lớn vào các nhà máy ở Đức, Nhật Bản và Mỹ, các cơ sở của TSMC ở Đài Loan vẫn sản xuất từ 80 đến 90% tổng sản lượng chip của công ty. Đơn giản là không có giải pháp thay thế nào trên thế giới cho các loại chip tiên tiến mà các công ty hàng đầu của Đài Loan sản xuất. Điều này có nghĩa là Mỹ sẽ có một lợi ích lâu dài trong an ninh của Đài Loan trong nhiều năm tới, ngay cả khi các nền tảng dân chủ truyền thống của mối quan hệ Mỹ-Đài Loan tiếp tục suy yếu dưới nhiệm kỳ tổng thống mang tính giao dịch của Trump.

Sự thống trị của TSMC trên thị trường chip toàn cầu tạo ra một vị thế sức mạnh cho Đài Loan mà các quốc gia khác chỉ có thể ghen tị. Khi có tin đồn rằng chính quyền Trump đang nghĩ đến việc yêu cầu một phần quyền sở hữu các công ty công nghệ nhận trợ cấp của Mỹ (như họ đã làm với Intel), TSMC đã nói rõ rằng họ thà từ bỏ các khoản trợ cấp còn hơn là pha loãng quyền sở hữu của mình – và Trump đã lùi bước. Khi đến lúc hoàn tất một thỏa thuận thương mại và thuế quan Mỹ-Đài Loan, các khoản đầu tư của TSMC vào Mỹ sẽ cung cấp đòn bẩy cho Đài Loan.

Tóm lại, bằng cách tăng chi tiêu quốc phòng, đầu tư vào Mỹ và đưa ra trường hợp rằng Đài Loan là một đối tác ổn định trong việc duy trì hòa bình và ổn định ở một điểm nóng toàn cầu quan trọng, Đài Loan có những quân bài mạnh để sử dụng trong việc quản lý quan hệ với Trump. Tất nhiên, không có điều nào trong số này cung cấp một hàng rào chống lại rủi ro Trump nhượng bộ về Đài Loan để đổi lấy một thỏa thuận thương mại hoặc một mối quan hệ tốt hơn với ông Tập. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc kế tiếp nhau đã tìm cách và thất bại trong việc khiến các nhà lãnh đạo Mỹ thực hiện một thỏa thuận như vậy. Ông Tập gần như chắc chắn sẽ cố gắng làm như vậy với Trump khi họ gặp nhau theo kế hoạch vào mùa thu này. Ông có thể yêu cầu Trump cam kết giảm bán vũ khí cho Đài Loan hoặc chính thức nói rõ rằng Mỹ phản đối nền độc lập của Đài Loan và ủng hộ việc thống nhất cuối cùng – và Trump có thể bị cám dỗ làm như vậy để đạt được thỏa thuận mà ông ta khao khát.

Nhưng ngay cả trong kịch bản này, Đài Loan vẫn giữ được quyền tự chủ đáng kể và các nguồn lực dồi dào để định hình tương lai của chính mình. Đài Loan phải đối mặt với các mối đe dọa nghiêm trọng từ Trung Quốc, sự bất ổn ngày càng tăng từ Washington và sự chia rẽ nội bộ. Nhưng có mọi lý do để tin rằng các nhà lãnh đạo và người dân của họ có vị thế tốt, nếu họ đưa ra những lựa chọn đúng đắn, để đảm bảo rằng hòn đảo không chỉ tiếp tục tồn tại mà còn phát triển.

PHILIP H. GORDON là Học giả tại Viện Brookings. Ông từng là Cố vấn An ninh Quốc gia cho Phó Tổng thống Kamala Harris và là tác giả của Losing the Long Game: The False Promise of Regime Change in the Middle East.

RYAN HASS là Nghiên cứu viên cao cấp, Giám đốc Trung tâm Trung Quốc John L. Thornton và là người giữ ghế Chủ nhiệm về Nghiên cứu Đài Loan trong Chương trình Chính sách Đối ngoại tại Viện Brookings. Từ năm 2013 đến 2017, ông giữ chức Giám đốc phụ trách Trung Quốc, Đài Loan và Mông Cổ tại Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ.

No comments:

Post a Comment