Cuộc gặp gỡ giữa Mỹ và Việt Nam (Phần 4)Tác giả: Kenneth T. Young
Trúc Lam chuyển ngữ
16-9-2025
Tiengdan
Tiếp theo phần 1 — phần 2 và phần 3
Thử thách của quyết định năm 1955
Các sự kiện lịch sử vào mùa xuân năm 1955 đã củng cố cam kết và sự tham gia của chúng ta ở Việt Nam. Trong Phái bộ Hoa Kỳ tại Sài Gòn, đã có sự bất đồng mạnh mẽ về việc ủng hộ Ngô Đình Diệm hay quay sang Bảo Đại, hoặc một người khác. Tranh cãi đã đến mức Tướng Collins phải trở về Washington để tư vấn cho Tổng thống Eisenhower rằng Hoa Kỳ có thể không còn ủng hộ Diệm nữa, vì ông quá cứng đầu và khó xử lý, đồng thời ông cũng nhận được rất ít sự ủng hộ trong các vòng chính trị Việt Nam.
Tại Washington, chúng ta cũng bắt đầu cảm thấy rằng có thể một công thức khác sẽ thích hợp hơn. Chúng ta đã nghĩ rằng vai trò then chốt của Diệm như một người yêu nước có thể được diễn giải mang tính biểu tượng là “Tổng thống Hiến pháp”. Điểm yếu của ông là từ chối tin tưởng người khác trong việc quản lý nhà nước đang hình thành. Khiếm khuyết chết người của ông là tự nhận trách nhiệm thay vì quyền lực, điều này có thể phá hoại hoạt động của chính phủ Việt Nam và mục đích chính sách của chúng ta nếu không được sửa chữa.
Việc quản lý điều hành phải được giao cho người khác, người có thể làm việc với Diệm trong sự tin cậy lẫn nhau và đồng thời đưa vào những người trẻ theo chủ nghĩa dân tộc. Chúng ta nghĩ rằng có thể bác sĩ Quát, người cuối cùng trở thành Thủ tướng tạm thời của Việt Nam vào năm 1965, có thể đóng vai trò “tổng thống điều hành” hoặc “phó tổng thống điều hành”, vì người Việt có truyền thống về cơ chế như vậy.
Công thức Diệm – Quát cũng được Washington đồng ý, nhưng không bao giờ được thực hiện. Người Việt chưa bao giờ biết về điều này. Nếu được thực hiện, có lẽ chúng ta đã tránh được nhiều khó khăn. Vào ngày công thức này được nhất trí tại Washington, nội chiến tình cờ bùng nổ ở Sài Gòn. Trận đánh nổi tiếng bắt đầu—Diệm đối đầu với Bình Xuyên, giáo phái kiểm soát cảnh sát, cũng như các đường dây ma túy, mại dâm và mọi thứ mục nát khác ở Sài Gòn.
Chúng ta đã chuẩn bị ủng hộ việc Diệm sử dụng lực lượng chống lại giáo phái này như một phần trong chính sách giúp xây dựng một nhà nước mạnh mẽ và khả thi ở Việt Nam. Dù đã nỗ lực thương lượng để tiếp quản quyền lực cảnh sát ở Sài Gòn từ tay Bình Xuyên, cuộc đối đầu đã xảy ra vào thời điểm không thuận lợi cho Washington và chúng ta phải hoãn thực hiện công thức mới. Đây không phải là lúc để khuyến khích thay đổi lãnh đạo. Các tiểu đoàn của quân đội Việt Nam đã chiến đấu tốt một cách bất ngờ, với sự lãnh đạo xuất sắc [của Diệm], trái với dự đoán của người Pháp và một số quan chức Mỹ.
Ngay lập tức, Diệm tập hợp quân đội và tiêu diệt Bình Xuyên trong thử thách thật sự đầu tiên về sức mạnh chính trị của ông. Lòng can đảm và khả năng chỉ huy của ông trong cuộc khủng hoảng đó đã chứng minh rằng ông có năng lực lãnh đạo mà người Mỹ trước đó chưa nhận ra đầy đủ. Ông, người em của ông và các đồng sự cũng thể hiện kỹ năng chính trị trong lãnh đạo và tổ chức, chuyển đổi Việt Nam từ quân chủ sang cộng hòa và tạo ra một phần thống nhất chính trị mà lúc đó hoàn toàn hỗn loạn. Hai giáo phái quyền lực khác, được các phần tử Pháp hậu thuẫn, cũng cố gắng loại bỏ Diệm, duy trì Hoàng đế Bảo Đại, hoặc thiết lập một chế độ trung lập để làm việc với Hồ Chí Minh và Hà Nội. Lực lượng của Diệm đã phản ứng nhanh chóng.
Hai loại “quốc hội tạm thời” đã họp vào đầu tháng 5, trước cuộc đối đầu của chúng ta với Pháp ở Paris, để kêu gọi một cuộc chuyển đổi cách mạng dân tộc từ quân chủ sang cộng hòa. “Ủy ban Cách mạng Quốc gia” [tức Hội đồng Nhân dân Cách mạng Quốc gia], gồm khoảng 4.000 đại biểu từ các đảng chính trị khắp miền Nam, đã thông qua một chương trình nhằm:
– Loại bỏ Hoàng đế Bảo Đại;
– Thành lập nền cộng hòa, với chính quyền xã hội chủ nghĩa, dân chủ và dân tộc chủ nghĩa cùng Quốc hội mới;
– Tăng cường sức mạnh xã hội và kinh tế của miền Nam chống lại chủ nghĩa cộng sản;
– Hợp tác với các lực lượng chống thực dân, chống cộng sản và chống phong kiến ở Đông Nam Á.
Quốc hội các cố vấn tỉnh và thành phố, mặc dù có nhiều bất đồng đặc trưng về chính trị Việt Nam, đã kêu gọi tổ chức bầu cử Quốc hội để xác định hệ thống chính trị của Việt Nam, chuyển giao toàn bộ quyền lực của Bảo Đại cho Diệm và thiết lập hòa bình, trật tự, dưới sự bảo trợ của Diệm. Cả hai “quốc hội” này đều thiếu Diệm.
Khi chúng ta đến Paris vào tháng 5 năm 1955 cho cuộc họp NATO, chúng ta biết rằng đây sẽ là cuộc đối đầu với Pháp về Diệm. Cuộc gặp này diễn ra ba lần riêng biệt. Trong lần gặp đầu tiên, Thủ tướng Pháp nói rằng nếu chúng ta không ngừng ủng hộ Diệm, Pháp sẽ rút hoàn toàn khỏi Đông Dương, không chỉ Việt Nam mà còn rút lui khỏi Lào và Campuchia.
Trong cuộc gặp thứ hai, sau khi tham khảo ý kiến Tổng thống và nhiều cố vấn, Ngoại trưởng Dulles đã phản ứng một cách bình tĩnh rằng, thực tế là Hoa Kỳ muốn có cơ hội rút khỏi Việt Nam. Pháp nên ở lại, ông nói. Nếu chính phủ Pháp đồng ý, Hoa Kỳ sẵn sàng để lại toàn bộ trách nhiệm kinh tế và quân sự về tương lai Đông Dương cho Pháp.
Ông [Dulles] nói thẳng: “Người Việt ‘không phải là bù nhìn’. Chúng ta không thể bảo họ phải làm gì và chúng ta cũng không muốn bảo họ phải làm gì. Nếu các ông ở Paris nghĩ rằng chúng ta có thể làm được chỉ vì 300 triệu đô la viện trợ, thì các ông đã hoàn toàn hiểu sai người Việt. Chúng ta không muốn bù nhìn. Và nếu họ thật sự như vậy — và các ông nên hiểu họ rõ hơn chúng ta nhiều — thì tốt hơn hết chúng ta không nên cố làm gì ở Việt Nam và nên ngừng mọi nỗ lực ngay bây giờ”, ông kết luận.
Một lần nữa bị bất ngờ, người Pháp ngay lập tức thừa nhận rằng người Việt hoàn toàn không phải là bù nhìn, vì Pháp đã gặp rất nhiều khó khăn với họ trong 100 năm qua, điều mà Thủ tướng Pháp châm biếm rằng, chính điều đó giải thích tình trạng khó khăn hiện nay của Pháp. Đây là quan điểm chính thức.
Ở cuộc gặp thứ ba trong “vở kịch ngoại giao” này, vào nửa đêm, Thủ tướng Pháp nói rằng, có thể đã có một sự hiểu lầm nào đó. Vấn đề này nên được xem xét lại, để cả Pháp lẫn Hoa Kỳ không rút khỏi Việt Nam. Ngô Đình Diệm thật sự là một người rất danh dự và chính trực. Có lẽ điều tốt nhất là cả Pháp và Hoa Kỳ cùng ủng hộ một chương trình mới để giúp Việt Nam. Nếu Hoa Kỳ thuyết phục người Việt không quá chống Pháp trong tuyên truyền, và nếu Hoa Kỳ rút một số người Mỹ ở Sài Gòn vốn có thiên kiến đặc biệt chống Pháp, thì mọi việc có thể diễn ra thuận lợi.
Dù sao đi nữa, chính phủ Pháp và Anh muốn Hoa Kỳ tiếp tục tham gia vào Việt Nam và toàn Đông Dương. Họ phủ nhận mọi ý tưởng về việc Mỹ rút lui.
Thủ tướng Pháp và Ngoại trưởng Mỹ đã phê chuẩn các chỉ thị song song nhưng không hoàn toàn giống nhau, gửi tới các đại sứ quán của chúng ta ở Sài Gòn, nhằm truyền đạt các cam kết cụ thể mà họ đã thương lượng. Ngoại trưởng Anh Harold MacMillan cũng đồng ý.
Các chỉ thị của chúng ta, được các nhà báo Mỹ, Anh và Pháp ở Paris tiết lộ chính xác, và phiên bản Pháp tuân theo một cách trung thành, bao gồm các điểm sau:
(1) Hoa Kỳ và Pháp sẽ hợp tác để ủng hộ chính phủ hợp pháp của Ngô Đình Diệm;
(2) Hoa Kỳ hy vọng rằng, chính phủ này sẽ được củng cố và mở rộng bằng cách đưa vào những quan chức và các chuyên gia thật sự có năng lực, thay vì đại diện của các nhóm chính trị đối lập, nhưng cách thức cải cách chính trị sẽ tự nhiên do Diệm quyết định và không bị áp đặt;
(3) Tổ chức bầu cử để thông qua hiến pháp và bầu các đại diện quốc gia cũng như tỉnh cần phải được tiến hành nhanh chóng để, theo quan điểm của Hoa Kỳ và Pháp, vừa bảo đảm tính chính danh chính trị, vừa có được sự ủng hộ của quần chúng, hoặc cho chính phủ Diệm, hoặc cho người kế nhiệm hợp hiến của ông. Đồng thời, điều này cũng sẽ giúp hình thành một quy trình dân chủ vững chắc, đáng tin cậy và tạo kinh nghiệm dân chủ cho Nam Việt Nam trong việc xử lý vấn đề “tổng tuyển cử Geneva” hay trưng cầu dân ý theo tuyên bố của bảy nước tại Geneva và đại diện của Hoa Kỳ tại Paris nhấn mạnh rằng “các cuộc tổng tuyển cử Geneva” này sẽ được tổ chức, nhưng phải trong điều kiện hoàn toàn tự do, có Liên Hiệp quốc giám sát ở cả Nam và Bắc Việt Nam.
(4) Để tránh khoảng trống quân sự trong chiến lược, lực lượng quân sự Pháp ở Việt Nam, khoảng 75.000 người, sẽ không rút ngay lập tức, mà sẽ được “dung hòa” với tiến trình huấn luyện và tái tổ chức Quân đội Quốc gia Việt Nam, nhằm bảo đảm có đủ lực lượng để bảo vệ Việt Nam trong khuôn khổ SEATO trước sự xâm lược tiềm tàng từ lực lượng miền Bắc đang gia tăng nhanh chóng, trắng trợn vi phạm nghĩa vụ của họ theo Hiệp định Geneva về đình chiến ở Việt Nam.
(5) Hoa Kỳ và Pháp sẽ hợp tác thúc đẩy sự tiến bộ xã hội và kinh tế nhanh chóng ở Nam Việt Nam.
(6) Hoa Kỳ sẽ sử dụng ảnh hưởng của mình với Diệm để ngăn chặn tuyên truyền và hoạt động chống Pháp, mặc dù Ngoại trưởng Dulles đã thẳng thừng nói với Pháp rằng, một người yêu nước mãnh liệt và kiên định như Diệm chưa bao giờ là “người của chúng tôi” và cũng chưa bao giờ “nằm trong túi chúng tôi”.
(7) Vấn đề Bảo Đại và việc chọn lựa quân chủ hay cộng hòa sẽ do người dân miền Nam Việt Nam quyết định một cách hợp pháp, mặc dù Hoa Kỳ không ủng hộ Bảo Đại và muốn ông thoái vị hơn.
Sự hòa hoãn với Pháp này đã chấm dứt mối rạn nứt quanh vấn đề Diệm và thiết lập một chính sách ba bên về việc giảm dần lực lượng Pháp và cải cách triệt để các thể chế chính trị ở Việt Nam. Tuy nhiên, Sài Gòn không hoàn toàn hài lòng với những quyết định của “Bộ Ba” này, vốn được đưa ra mà không có sự tham gia của họ. Chính quyền [Sài Gòn] đã chính thức yêu cầu tổ chức một hội nghị giữa các Ngoại trưởng Pháp, Anh, Việt Nam và Hoa Kỳ ở Sài Gòn, nhằm thống nhất chính sách về việc rút quân Pháp, bảo đảm an ninh cho Việt Nam trong khuôn khổ SEATO, cũng như quy định điều kiện và thủ tục tổ chức bầu cử theo Tuyên bố Geneva. Tiếc thay, Washington, Paris và London đều từ chối yêu cầu này.
Vào mùa hè và đầu mùa thu năm 1955, trọng tâm chuyển sang cuộc nội chiến tiếp diễn với các giáo phái, chính quyền Diệm đã một phần giành thắng lợi và đạt được sự thống nhất chính trị. Tiếc thay, việc cải cách điền địa và cải cách xã hội lại bị gác sang một bên.
Ngày 23 tháng 10 năm 1955, một cuộc trưng cầu dân ý đã được tổ chức ở Nam Việt Nam để chọn giữa Bảo Đại và Diệm. Rõ ràng là không có nhiều lựa chọn. Phần lớn cử tri hợp lệ vứt bỏ lá phiếu của Hoàng đế, và Diệm giành được 98,2% số phiếu bầu — một tỷ lệ “quá áp đảo” đến mức gây ngượng ngùng, mà nhiều quan sát viên coi là một cuộc lựa chọn thật sự cho giải pháp duy nhất khả thi. Nhưng ít nhất, chúng tôi cảm thấy rằng một cuộc trưng cầu dân ý đã chọn Diệm, trong khi Hồ thì chưa bao giờ tổ chức một cuộc trưng cầu như vậy!
Ngày 26 tháng 10 năm 1955, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã công nhận quốc gia mới – Việt Nam Cộng hòa – kèm theo lời tuyên bố:
“Chúng tôi vui mừng được chứng kiến sự hình thành những thủ tục dân chủ có trật tự và hiệu quả ở một khu vực Đông Nam Á vốn đã và đang tiếp tục bị đe dọa bởi các nỗ lực của Cộng sản nhằm áp đặt ách kiểm soát toàn trị”.
Cuộc trưng cầu dân ý đã loại bỏ ảnh hưởng của Bảo Đại đối với các giáo phái vũ trang, đồng thời việc thiết lập một số thể chế cộng hòa, đã mở đường cho việc tập trung thực hiện chương trình cải cách dân tộc gắn với an ninh, nhằm làm cho chính sách “nam châm” phát huy hiệu quả. Chỉ còn một bước lớn về chính trị cần thực hiện — đó là soạn thảo hiến pháp và thành lập quốc hội.
Ngày 4 tháng 3 năm 1956, đa số cử tri tiếp tục bỏ phiếu trong một cuộc bầu cử được mô tả là tương đối tự do và trung thực, để bầu ra một Quốc hội gồm 123 thành viên. Trong số này, 90 đến 100 đại biểu có liên hệ với Phong trào Cách mạng Quốc gia và một số đảng phải khác liên kết với Diệm và em trai của ông, nhưng cũng có 20 đến 30 đại biểu độc lập thật sự được bầu.
Theo các quan sát viên khách quan, cử tri tại các khu vực bầu cử thật sự có lựa chọn giữa nhiều ứng cử viên khác nhau, mặc dù phạm vi quan điểm chính trị không bao gồm Cộng sản, thực dân hay phe quân chủ. Phần lớn các quan sát viên đều đồng ý rằng, cuộc bầu cử này phản ánh sự ủng hộ thật sự dành cho Diệm và các chính sách của ông, cũng như cho một sự cải cách dân tộc chủ nghĩa ở Nam Việt Nam.
Cuộc bầu cử này cũng đại diện cho một sự thể hiện công bằng ý chí của người dân Việt Nam chống lại việc tổ chức tổng tuyển cử chung với miền Bắc, điều vốn sẽ trao Nam Việt Nam cho phe Cộng sản.
Một mức độ tự quyết đã bắt đầu hình thành. Thực tế về một Nam Việt Nam độc lập về chính trị đang dần xuất hiện.
Khi xem lại hồ sơ, khó có thể tìm thấy những tuyên bố chính thức của Mỹ mà sau này mô tả chính sách cải cách gắn với an ninh hay ủng hộ một chủ nghĩa dân tộc chân chính và triệt để ở Nam Việt Nam sau năm 1954. Thậm chí tôi còn được nghe từ những người hiện nay phản đối chính sách của Tổng thống Johnson ở Việt Nam rằng, Hoa Kỳ chưa bao giờ ủng hộ cải cách và chủ nghĩa dân tộc ở Nam Việt Nam trong những ngày đầu tham gia, và rằng nếu chúng ta đã làm điều đó, thì Hoa Kỳ đã không rơi vào tình thế khó khăn hiện tại. Sự thật là, một chính quyền Cộng hòa ở Washington đã kiên quyết ủng hộ chủ nghĩa dân tộc dân chủ chân chính và cải cách đích thực ở Nam Việt Nam. Và những cải cách đó thậm chí còn mang một số màu sắc xã hội chủ nghĩa.
Như một bằng chứng về sự ủng hộ có lương tâm của chúng tôi đối với khát vọng dân tộc của người dân Việt Nam, điều mà Tổng thống Eisenhower đã nhấn mạnh trong bức thư ngày 23 tháng 10 năm 1954, tôi xin chỉ ra rằng, chính sách này đã từng được khẳng định, ví dụ, trong một bài phát biểu chính thức mà tôi đã thực hiện vào tháng 8 năm 1956, được đăng trong Bản tin Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Tôi đã đưa ra bình luận như sau về chính sách của Hoa Kỳ ở Việt Nam:
Cuối cùng, sự tồn tại của tự do đòi hỏi sự cảm thông, khuyến khích và hỗ trợ của chúng ta dành cho những nhóm và phong trào chia sẻ những mục tiêu rộng lớn của chúng ta và nhìn chung góp phần thúc đẩy lợi ích của chúng ta. Những diễn biến then chốt ở Nam Việt Nam trong năm 1955 đã đặt chúng ta trước một thách thức kịch tính.
Vấn đề chính trị xoay quanh việc Ngô Đình Diệm có tiếp tục tại vị hay không, trong khi nhiều người Việt Nam và người nước ngoài, chính thức hoặc không chính thức, đã coi ông là một nhân vật “hết thời”. Nếu không có sự lãnh đạo kiên cường của ông vào thời điểm đó, Việt Nam có thể đã sụp đổ. Một chủ nghĩa dân tộc cách mạng khá khác thường đã nhanh chóng tự tổ chức ở Việt Nam, ủng hộ vai trò lãnh đạo của Ngô Đình Diệm. Những lực lượng khác ở Việt Nam và trong Thế giới Tự do cũng đã đứng về phía ông. Trong khoảnh khắc thử thách đầy rối ren ấy ở Việt Nam, Bộ Ngoại giao, khi bị thúc ép phải bày tỏ quan điểm về tình hình, đã tuyên bố: ‘Hoa Kỳ hết sức cảm thông với một sự nghiệp dân tộc chủ nghĩa tự do và hiệu quả. Vì lý do đó, chúng tôi đã và đang tiếp tục ủng hộ chính phủ hợp pháp của Ngô Đình Diệm’.”
(Còn tiếp)
No comments:
Post a Comment