Friday, September 26, 2025

Cuộc gặp gỡ giữa Mỹ và Việt Nam – Phần cuối: Lời bạt của của GS Stephen B. Young
Stephen B. Young
Trúc Lam chuyển ngữ
26-9-2025
Tiengdan
Tiếp theo phần 1phần 2phần 3phần 4phần 5phần 6 và phần 7

Một cách gián tiếp, việc Cha tôi được bổ nhiệm làm Đại sứ tại Thái Lan đã mang lại những hệ lụy bất lợi cho miền Nam Việt Nam.

Chính quyền Kennedy đã bổ nhiệm Cha làm Đại sứ ở Bangkok và ông Frederick Nolting làm Đại sứ ở Sài Gòn. Khi Thứ trưởng Ngoại giao Chester Bowles biết tin này, ông đã khuyên Tổng thống Kennedy nên cử Cha tôi sang Sài Gòn và cử ông Nolting sang Bangkok, [Cha tôi] nói rằng, Việt Nam sẽ gặp nguy hiểm và bất ổn, trong khi Thái Lan sẽ yên bình và ổn định.

Ông Bowles nói rằng, Cha tôi am hiểu Đông Nam Á và người Việt, trong khi ông Nolting chưa từng công tác ở châu Á nên sẽ không có kỹ năng giải quyết xung đột chính trị hay biết cách đánh bại cuộc chiến tranh du kích của Cộng sản. Nhưng Ngoại trưởng Dean Rusk đã từ chối thay đổi vì theo thông lệ ngoại giao lâu đời, cả Thái Lan và Nam Việt Nam đều đã đồng ý với các quyết định bổ nhiệm này.

Tôi tin rằng, nếu Cha tôi làm Đại sứ ở Sài Gòn, khi cuộc chiến với Cộng sản ngày càng trở thành mối đe dọa vào năm 1962 – 1963, Cha sẽ nhận được sự tôn trọng của báo chí và sẽ ông giải thích chính sách của Hoa Kỳ một cách hiệu quả để ngăn chặn các phóng viên Mỹ quay lưng lại với nỗ lực chiến tranh và chính phủ Nam Việt Nam.

Thứ hai, vào năm 1963, khi cuộc khủng hoảng Phật giáo thách thức tính chính danh và hiệu quả của chính quyền Tổng thống Diệm, Cha sẽ khuyến khích đưa ra một giải pháp cho cuộc khủng hoảng và như vậy sẽ ngăn chặn cuộc đảo chính tháng 11 [năm 1963] xảy ra.

Tổng thống Diệm tin tưởng Cha vì sự ủng hộ của Cha đối với ông trong cuộc đối đầu với người Pháp hồi năm 1955. Cha có khả năng nói chuyện thẳng thắn với ông [Diệm] và, tôi nghĩ rằng có thể đã thuyết phục ông nhường bước trong một sự thỏa hiệp với Phật giáo.

Điều đó đã không xảy ra dưới thời các Đại sứ Nolting và Lodge. Vì vậy, sau cuộc đảo chính, [chính quyền] Nam Việt Nam rơi vào tình trạng rối ren, tình hình chính trị gặp khó khăn và hỗn loạn, với một chính quyền yếu kém và không có chương trình bình định nông thôn từ năm 1964 đến 1967, điều mà Hà Nội đã khai thác triệt để cho lợi ích to lớn của mình và cũng khiến nhiều người Mỹ có lý do để ủng hộ phong trào phản đối chiến tranh.

Lòng tin là nền tảng khiến tôi nghĩ rằng, Cha tôi có thể đã tạo điều kiện cho một cuộc chuyển giao quyền lực từ Tổng thống Ngô Đình Diệm và gia đình ông sang một liên minh các lãnh đạo quốc gia Việt Nam. Rất khó hợp tác với ông Diệm vì hầu như ông không có lòng tin vào người khác.

Tôi đã học được điều này vào mùa xuân năm 1968 từ ông Trần Văn Chương. Ông Chương là cha của bà Trần Lệ Xuân. Bà Xuân là vợ của ông Ngô Đình Nhu, người em trai có ảnh hưởng nhất của ông Ngô Đình Diệm. Ông Chương từng là Đại sứ của Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ từ năm 1954 đến 1963.

Khi Cha tôi là Vụ trưởng Vụ Đông Nam Á tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, ông và Mẹ tôi thường mời vợ chồng ông Đại sứ Chương đến nhà dùng bữa tối. Anh tôi và tôi đôi khi cũng được tham gia bàn ăn. Vì vậy, vào năm 1968, khi tôi đang học tiếng Việt tại Trung tâm Huấn luyện Việt Nam của Bộ Ngoại giao ở Arlington, Virginia, tôi đã nhớ đến Đại sứ Chương và xin phép được đến thăm ông.

Ông và tôi đã trò chuyện trong phòng ăn của ngôi nhà ông, cách khu Chevy Chase Circle không xa. Tôi đã từng hỏi ông: “Tại sao ông Diệm lại thiếu lòng tin vào người khác như vậy?

Đại sứ Chương cười và trả lời: “Ông ta thậm chí còn không tin chính mình!

Rồi không cần tôi gợi ý, Đại sứ Chương kể cho tôi nghe câu chuyện về con gái ông là bà Trần Lệ Xuân (ông và con gái đã công khai cắt đứt mối quan hệ cha – con vào cuối năm 1963 do bà [Xuân] kiên quyết đàn áp Phật tử và những người biểu tình khác).

Rất bình tĩnh, ông Chương kể rằng, khoảng 10 ngày trước cuộc đảo chính quân sự chống lại Tổng thống Diệm, bà Nhu và con gái bà đang ở Tokyo khi trên đường trở về từ chuyến diễn thuyết ở Hoa Kỳ. (Tình cờ tôi đã nghe bà phát biểu ở Cambridge, Massachusetts, và thấy bà quá cảm xúc và không gây ấn tượng). Chồng bà là ông Ngô Đình Nhu gọi điện từ Sài Gòn. Ông Nhu nói: “Anh sẽ sang Tokyo gặp em. Tình hình ở đây đã vượt quá tầm kiểm soát. Không còn cách nào để tiếp tục điều hành đất nước. Chúng ta đã hết lựa chọn rồi”.

Bà Nhu trả lời: “Anh và anh của anh [Tổng thống Diệm] thật là hèn nhát! Anh nhớ cuộc đảo chính hụt năm 1960 chứ? Hai người đã sẵn sàng thỏa hiệp và đàm phán. Chỉ có em là cứng rắn và nói, phải phản công, và chúng ta đã thắng. Nếu anh sang Tokyo, em sẽ không còn là vợ anh nữa”.

Ông Nhu im lặng và cúp máy. Ông ở lại Sài Gòn, không dám đối mặt với vợ mình.

Vì ông Nhu từ chối rời Việt Nam, các tướng lĩnh tổ chức đảo chính quyết định tiến hành kế hoạch lật đổ Tổng thống Diệm bằng vũ lực. Cuộc đảo chính thành công. Chính phủ Diệm sụp đổ.

Trong cuộc đảo chính ngày 2 tháng 11 năm 1963, sau khi đã đầu hàng các tướng lĩnh, ông Nhu và Diệm, anh trai ông, đã bị sát hại khi đang ở trên xe thiết giáp.

Ngay khi ông Chương kết thúc câu chuyện, vợ ông bước vào phòng ăn và ông trở nên trầm lặng. Sau đó, ông lịch sự tiễn tôi ra cửa và chúc tôi mọi điều tốt đẹp.

Cha tôi từng kể cho tôi một câu chuyện về Tổng thống Diệm để minh chứng cho sự tin tưởng mà ông Diệm dành cho ông. Năm 1962, khi đang là Đại sứ tại Bangkok, Cha tôi đến Sài Gòn để hội đàm với Đại sứ Nolting và Tướng Harkins. Cha tôi có đến chào Tổng thống Diệm.

Ông Diệm xúc động khi nói với Cha tôi về quyết định của Hoa Kỳ ký thỏa thuận với Liên Xô để “trung lập hóa” Lào. Thỏa thuận này khiến cán cân chiến lược nghiêng về phía Hà Nội và chống lại Sài Gòn. Quyết định này được Tổng thống Kennedy thông qua theo đề xuất của ông Averell Harriman, một chính khách kỳ cựu của đảng Dân chủ, nhưng lại là một nhà ngoại giao Mỹ không mấy quan tâm đến việc lắng nghe người châu Á, càng không kiên nhẫn khi ý kiến của họ khác với ông. Cha tôi phản đối thỏa thuận nhưng ông không thể làm gì khác.

Ông Diệm nói rằng, khi Mỹ rút khỏi Lào, thì Hà Nội có một “xa lộ” để tiến vào miền Nam – tức là đường mòn Hồ Chí Minh. Việc phòng thủ miền Nam trở nên rất khó khăn. Ông Diệm đã đúng, nhưng số phận đã chống lại ông.

Văn phòng của ông Diệm nằm ở tầng hai của Dinh Gia Long. Sau cuộc gặp, Cha tôi bắt đầu đi xuống cầu thang. Ông Diệm lúc đó bước ra khỏi phòng tiếp khách và gọi: “Ken!” Cha tôi dừng lại, quay lại nhìn Tổng thống Việt Nam Cộng hòa đang đứng đầu cầu thang.

Ông Diệm nói: “Tôi sẽ tiếp tục làm tròn bổn phận của mình cho đến khi họ…” – Rồi ông đưa ngón trỏ phải lên thái dương bên phải và giơ ngón cái như thể đang bóp cò một khẩu súng.

Không nói thêm gì, ông Diệm quay lại và bước vào văn phòng. Cha tôi tiếp tục xuống cầu thang, rời khỏi nơi đó với một cảm giác rất bất an.

Nhìn lại, một người yêu nước cứng đầu là ông Ngô Đình Diệm đã tiên đoán trước kết cục của mình – bị lật đổ và thất bại sau đó khoảng 15 tháng.

Từ những giai thoại này về Tổng thống Diệm, tôi suy luận rằng, Cha tôi – với sự thấu hiểu và cẩn trọng – đã có thể tìm ra cách thức để chuyển giao quyền lực từ gia đình ông Diệm và nhóm thân tín của ông sang một liên minh mới gồm những người theo chủ nghĩa quốc gia. Việc chuyển giao này có thể đã giữ được sự tôn trọng công khai đối với lòng yêu nước của Diệm, nhưng cũng khắc chế được sự cứng đầu và thiếu tin tưởng của ông bằng những đánh giá thực tế về những gì ông đã làm được cho đất nước.

Chúng ta sẽ không bao giờ biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu Cha tôi được bổ nhiệm làm Đại sứ tại Việt Nam thay vì Thái Lan. Nhưng [chúng ta biết rằng] với cuộc chiến leo thang sau cuộc đảo chính tháng 11 năm 1963, đã có hơn 1.000.000 người Việt — cả hai miền Nam – Bắc — đã thiệt mạng, và 58.000 người Mỹ chết khi hỗ trợ chủ nghĩa quốc gia Việt Nam.

***

Bản tiếng Anh của GS Stephen B. Young:

AFTERWARDS

Indirectly Dad’s appointment as Ambassador to Thailand had unfortunate implications for South Vietnam.  The Kennedy Administration appointed Dad to be Ambassador in Bangkok and Frederick Nolting to be Ambassador in Saigon. When Deputy Secretary of State Chester Bowles heard of this, he advised President Kennedy to send Dad to Saigon and Nolting to Bangkok, saying Vietnam would be in danger and unstable while Thailand would be peaceful and stable. Bowles said that Dad knew Southeast Asia and the Vietnamese while Nolting had never served in Asia and so would not be skilled in resolving political conflicts or have any idea how to defeat a Communist insurgency.

But Secretary of State Dean Rusk refused to make the change as, according to long standing diplomatic protocol, both Thailand and South Vietnam had agreed to the appointments.

I believe that if Dad had been Ambassador in Saigon, as the Communist insurgency grew as a threat in 1962 and 1963, he would have had the respect of the press and would have explained US policy effectively to prevent the turning of the American reporters against the war effort and the South Vietnamese government.

Second, in 1963 as the Buddhist crisis challenged the legitimacy and effectiveness of President Diem’s government, Dad would have encouraged a solution to the crisis and so prevented the November coup from taking place.

President Diem trusted Dad because of Dad’s support for him against the French in 1955. Dad had a skill in talking frankly to him and, I think, could have convinced him to step aside in a compromise with the Buddhists.

That did not happen under Ambassadors Nolting and Lodge. So, after the coup, South Vietnam descended into difficult and chaotic political confusion with weak governance and no village-based counter insurgency program from 1964 through 1967, which Hanoi exploited to its great advantage and which gave many Americans reason to support a protest movement against the war.

Trust was the foundation for why I think Dad could have facilitated a transfer of power from President Diem and his family to a coalition of Vietnamese nationalist leaders.  Diem found collaboration to be difficult as he had very low trust in others.

I learned this in spring 1968 from Tran Van Chuong. Chuong was the father of Tran Le Xuan, the wife of Ngo Dinh Nhu, the most influential brother of Ngo Dinh Diem. Chuong had been South Vietnam’s Ambassador to the United States from 1954 to 1963. When Dad had Director of the Office of Southeast Asian Affairs at the Department of State, he and my Mother often invited Ambassador and Mrs. Chuong to our house for dinner.  My brother and I were sometimes included at the table.  Thus, in 1968 when I was studying Vietnamese at the State Department’s Vietnam Training Center Virginia, in Arlington, I remembered Ambassador Chuong and asked to call on him.

He and I spoke together in the dining room of their house not too far from Chevy Chase Circle. At one point I asked him “Why Diem was so mistrustful of others?”

Ambassador Chuong laughed and replied “He doesn’t even trust himself!”

Then Ambassador Chuong told me without prompting a story about his daughter Madam Nhu.  (He and his daughter had publicly broken their relationship in late 1963 given her obstinance in insisting on repression of Buddhist and other protestors.)

Ambassador Chuong quite calmly said that about 10 days or so before the military coup against President Diem, Madam Nhu and her daughter were in Tokyo on their way back from a speaking tour in the United States. (I had by coincidence heard her speak in Cambridge, Mass, and had found her emotional and not impressive.)  Her husband Ngo Dinh Nhu called her from Saigon.

Nhu said: “I’m coming to Tokyo to join you. The situation here is beyond control. There is no way to continue governing the country. We are out of options.”

Madam Nhu replied: “You and your Brother [President Diem] are such cowards!  Remember the attempted coup of 1960? You both were ready to compromise and negotiate. Only I held firm and said fight back and we won.  If you come to Tokyo, I won’t be your wife anymore.”

Nhu said nothing and hung up. He stayed in Saigon, not daring to face his wife.

In response to Nhu’s refusal to leave South Vietnam, the Generals organizing a coup decided to go ahead with their plans to forcibly remove Diem from office. Their coup was successful. Diem’s government collapsed.

During the coup, on November 2, 1963, Nhu and his brother Diem, having surrendered to the Generals, were murdered while riding in an armored personnel carrier.

Just as he finished the story, his wife walked into the dining room and he withdrew into himself. He then most graciously showed me to the front door and wished me well.

Dad once told me a story about President Diem which demonstrated Diem’s trust in him. In 1962 while Ambassador in Bangkok, Dad had gone to Saigon for consultations with Ambassador Nolting and General Harkins. Dad paid a personal call on President Diem.

Diem became emotional in talking to Dad about the American decision to enter into an agreement with the Soviet Union to “neutralize” Laos.  The agreement which tipped the strategic balance of power to Hanoi against Saigon had been pressed on President Kennedy by Averill Harriman, a senior Democrat and statesman but another American diplomat who had little time to listen to Asians or patience to take them seriously when their opinion differed from his.  Dad opposed the agreement but was overruled.

Diem said with the American’s out of Laos, Hanoi now had an open highway into South Vietnam – the Ho Chi Minh trail.  Defense of South Vietnam would now become very hard. Diem was correct but fate was against him.

Diem’s office was on the second floor of the Gia Long Palace. After the meeting Dad was starting to walk down the stairs to the ground floor.  Diem then came out of the reception room saying “Ken!”

Dad stopped, turned around and look back at the South Vietnamese President, now standing at the head of the stairs.  Diem said: “I will continue to do my duty until they ….”

Then he put his right forefinger to his right temple and cocked his thumb as if firing a pistol into his head.  Saying nothing more, Diem turned and returned to his office.

Dad turned, descended the stairs, and left feeling very unsettled.

In retrospect, a stubborn patriot, Ngo Dinh Diem, had just predicted his own end – overthrow and failure some 15 months later.

From these anecdotes about President Diem, I have surmised that Dad would have insightfully and carefully found a way to transfer power from Diem’s family and coterie to a new coalition of nationalists in a fashion that would give public respect to Diem’s patriotism but counter his mistrustful stubbornness with realistic commendations for having done well by his country.

We will never know what would have happened if Dad had been appointed as Ambassador to South Vietnam instead of Thailand.

But with the expanding war after the coup of November 1963, over 1,000,000 Vietnamese – Northern and Southern – lost their lives and 58,000 Americans died while supporting Vietnamese nationalism.

No comments:

Post a Comment