VNTB – Nhiều bộ sách giáo khoa: chìa khoá để thực hiện chương trình ngữ văn hiện hành
Vũ Thanh Tâm
16.09.2025 6:03
VNThoibao
(VNTB) – Văn học lẽ ra phải là con đường mở rộng khả năng thấu cảm để có thể hiểu người khác và chính mình trong tính phức tạp, “đa đoan” của nhân tâm, lại bị biến thành khuôn mẫu hẹp hòi.
Bài này là để mình gửi đến phụ huynh. Khi các bạn đấu tranh cho việc quay lại một bộ sách giáo khoa, các bạn đang hình dung những người làm chính sách giáo dục là “lũ đần độn và vẽ chuyện để kiếm lợi” và các bạn nghĩ mình đang “tranh đấu cho tương lai con em chúng ta”. Các bạn đã sắp thắng rồi. Nhưng trước khi các bạn hạ knock-out các nhà chính sách đã đưa ra “một chương trình, nhiều bộ sách giáo khoa”, xin các bạn hãy bình tĩnh ngồi xuống và nhìn lại xem các bạn sắp tước mất điều gì trong tương lai thế hệ trẻ của chúng ta?
Cái gì không biết thì mình sẽ không nói, nên không lạm bàn các môn khác, mình chỉ xin tập trung vào chuyên môn của mình là Ngữ văn. Bài viết này trả lời các vấn đề:
– Vì sao mình ủng hộ chương trình GDPT Ngữ văn hiện hành?
– Vì sao mình nghĩ rằng việc có nhiều bộ sách cùng được giảng dạy chính thức và bình đẳng thì mới có thể thực hiện được chương trình này?
– Vì sao hiện tại việc triển khai chương trình gây rối cho phụ huynh đến thế?
– Và nếu giả sử bắt buộc phải quay lại có MỘT BỘ SÁCH thống nhất, thì nên làm thế nào để chương trình không chết yểu?
Để viết bài này, mình dựa trên CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MÔN NGỮ VĂN (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT năm 2018 nên gọi tắt là Chương trình 2018). Cần hiểu rằng “một chương trình, nhiều bộ sách giáo khoa” nghĩa là chương trình khung này mới là “pháp lệnh”, là “thống nhất toàn quốc”, và là nội dung giáo dục. Còn sách giáo khoa chỉ là phương tiện, không phải “pháp lệnh” như trước kia nữa. Chương trình này được ban hành rộng rãi, có trên web của Bộ và web của mọi trường, có trong đầu giáo viên, và bạn không cần phải mua nó. Thực chất nếu nó được giáo viên thực hiện đúng (điều đó cần bạn cho họ thời gian), thì bạn chẳng cần phải mua bất cứ sách nào cho con bạn nữa cả.
1. VÌ SAO MÌNH ỦNG HỘ CHƯƠNG TRÌNH GDPT NGỮ VĂN HIỆN HÀNH?
Bối cảnh dạy văn trước khi có chương trình 2018 thật đáng ngại: Trong nhiều thập kỷ, việc học văn chủ yếu xoay quanh một số ít tác phẩm “được tuyển chọn”, với thái độ chỉ xem trọng những tác giả đã được chọn vào vào sách giáo khoa. Học sinh được dạy phải tin vào sách giáo khoa như “chân lý”, tin vào bài giảng thầy cô như khuôn vàng thước ngọc. Cách học này đã vô tình tạo ra một thế giới quan và nhân sinh quan phiến diện: học sinh quen nhìn người, nhìn đời theo lối mòn định sẵn, e ngại sự khác biệt, thậm chí sợ hãi trước những quan điểm không trùng khớp với sách hay lời thầy. Văn học lẽ ra phải là con đường mở rộng khả năng thấu cảm để có thể hiểu người khác và chính mình trong tính phức tạp, “đa đoan” của nhân tâm, lại bị biến thành khuôn mẫu hẹp hòi.
Sự hẹp hòi đó càng trầm trọng hơn khi đa phần các tác phẩm được chọn vào sách đã cũ rồi, nên thể hiện góc nhìn “ngây thơ” luôn chia đôi con người thành thiện – ác, giàu – nghèo, kẻ ác – nạn nhân, ta – địch… Đợt thay sách năm 2000, một số tác phẩm có cái nhìn đa chiều về đời sống bắt đầu xuất hiện như các truyện của Nguyễn Minh Châu, nhưng rất ít ỏi. Ngữ liệu đã cũ và do chỉ có một bộ sách, mỗi lần biên soạn đều tốn kém của nhà nước nên rất khó cập nhật cho theo kịp đời sống văn học. Cái nhìn đời, nhìn người – vốn là điều quan trọng nhất trong văn chương – luôn thay đổi mỗi ngày dựa trên sự tiến bộ rất nhanh trong nhân sinh quan của con người Việt Nam thời hội nhập thế giới, nhưng những cái nhìn mới ấy khó lòng đi vào chương trình giảng dạy được vì tính đóng của một bộ sách giáo khoa duy nhất. Các tác phẩm mới khó đến với học sinh vì nó không có trong sách giáo khoa.
Hệ quả của nền giáo dục ấy là nó tạo ra những con người ngây thơ, là người Việt Nam “mãi không lớn được”: hẹp hòi, cố chấp, luôn nhìn những ai khác mình là “lệch pha”, là phải đấu tố. Những ai va chạm thực tế cuộc sống để buộc phải “lớn lên trong cách nhìn đời” thì vỡ mộng, chua chát và cất lên tiếng nói khác chuẩn, để rồi bị xem là “phản động”. Đó là chỉ bàn đến người, chưa dám mơ đến một nền văn học bắt kịp văn học thế giới. Trong đời sống văn học, đó cũng là lý do sinh ra những bài thơ ngô nghê, những truyện ngắn đoạt giải này giải kia mà đọc vào khiến người ta cười lăn ra vì sự lạc hậu và ngây thơ, sinh ra việc những nhà văn tài năng tranh đấu cho văn học thì trở nên lẻ loi và bị cả văn giới xem là gàn dở….
Trong bối cảnh ấy, CT 2018 là một bước tiến lớn để môn Văn không còn là “môn học thuộc lòng”, mà trở thành hành trình khám phá bản thân và nhân loại, thành công cụ để xây dựng một thế hệ công dân mới văn minh hơn.
2. VÌ SAO VIỆC CÓ NHIỀU BỘ SÁCH CÙNG ĐƯỢC GIẢNG DẠY CHÍNH THỨC VÀ BÌNH ĐẲNG THÌ MỚI CÓ THỂ THỰC HIỆN ĐƯỢC CHƯƠNG TRÌNH NÀY?
2.1 Xin trích MỤC TIÊU CHƯƠNG TRÌNH Ngữ văn 2018: “Môn Ngữ văn giúp học sinh khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, có đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn; có tình yêu đối với tiếng Việt và văn học; có ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc, góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị văn hoá Việt Nam; có tinh thần tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và khả năng hội nhập quốc tế.”
Mục tiêu ấy sẽ chỉ đạt được nếu học sinh được đọc một nguồn ngữ liệu đa dạng mà chẳng có cái nào là “chính thống”, cái nào là “phụ, chỉ để tham khảo”. Chỉ khi mọi ngữ liệu đều bình đẳng: ngữ liệu trong sách đang học ở trường hay sách của bộ khác và cả tác phẩm ngoài sách nữa, cái nào cũng xứng đáng được học và cái nào cũng có thể là đề kiểm tra, thì khi đó, học sinh mới có thể “khám phá bản thân và thế giới xung quanh” dưới nhiều góc nhìn, mới có thể học cách thấu hiểu con người rằng con người là phức tạp, mỗi người có một góc nhìn riêng, và do đó mới có thể thấu hiểu người khác và chính bản thân mình, trở nên bớt hẹp hòi và hung hãn. “Tinh thần tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và khả năng hội nhập quốc tế” chỉ có thể đạt được khi học sinh được tiếp thu văn chương một cách đa dạng.
Nếu có một bộ sách được cho là chính thống, với tâm thế “học là để thi, học gì thi nấy, cái gì trong sách thì cái đó là chân lý” sẵn có, mục tiêu của chương trình sẽ khó lòng đạt được.
2.2 Về mặt QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH:
Xin trích các quan điểm:
“- Chương trình được xây dựng theo hướng mở, thể hiện ở việc không quy định chi tiết về nội dung dạy học mà chỉ quy định những yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói và nghe cho mỗi lớp; quy định một số kiến thức cơ bản…
– Chú ý sự đa dạng của đối tượng học sinh xét về phương diện vùng miền, điều kiện và khả năng học tập”.
Điều đó có nghĩa rằng chương trình là khung sườn, yêu cầu ở mỗi mốc năm học thì cần có lượng kiến thức chuẩn nào, mức năng lực nào. Căn cứ vào đó, giáo viên lựa chọn sách giáo khoa và hình thành giáo án riêng để giảng dạy học sinh. Đến lúc thi thì vẫn là đề chung bởi vì đề chỉ kiểm tra kiến thức và năng lực chung chứ không kiểm tra hiểu biết riêng về từng tác phẩm, nên giáo viên chọn ngữ liệu nào cũng được, miễn phù hợp với yêu cầu đầu ra cần có.
Chẳng hạn như khi dạy thần thoại, bên cạnh các thần thoại của người Việt, sách này chọn thần thoại Hy Lạp, sách kia chọn thần thoại Ấn Độ, nhưng tôi là giáo viên ở Tây Nguyên thì tôi tự chọn thần thoại ngoài sách giáo khoa hiện hành, chọn của người Lạch, người K’ho, hay tôi là giáo viên miền núi phía Bắc thì tôi chọn của người Mường, người Dao… đều được, miễn sao cuối cùng học sinh hiểu về tư duy thần thoại, biết cảm thụ cái hay của thần thoại và vận dụng nó trong giao tiếp với nhân loại quanh mình.
Như vậy, chương trình trao quyền mà cũng là trao nghĩa vụ cho giáo viên. Nhiều SGK buộc giáo viên phải nắm chắc chương trình, biết phân tích và chọn lựa. Giáo viên không còn “dạy theo sách” mà “dạy theo chương trình” và phải hướng đến người học của mình là ai.
3. MỘT CHƯƠNG TRÌNH HAY NHƯ VẬY, TẠI SAO KHÔNG “ĐƯỢC LÒNG DÂN”?
Bởi vì cách triển khai “chưa tới”. Lẽ ra theo tinh thần này, giáo viên là người tự chọn sách. Học sinh không bắt buộc phải mua sách này hay sách khác. Giáo viên chọn ngữ liệu nào thì có trách nhiệm cung cấp ngữ liệu ấy cho học sinh. Trường học cần có ban học liệu. Chương trình cũng quy định rõ về mặt phương tiện dạy học: mỗi lớp học “cần có một tủ sách đầy đủ các tài liệu tối thiểu”. Nhưng thực tế hiện nay chưa có.
Như vậy cái sai trong triển khai là ở những việc:
Thứ nhất: đưa quyền chọn sách cho trường chứ không phải cho từng giáo viên, tạo nên tình trạng giáo viên vẫn còn lệ thuộc sách và sợ bị sai nên “phải dạy giống các cô khác trong tổ, các trường khác trong tỉnh” chứ không ý thức rằng GIÁO ÁN CỦA MÌNH MỚI LÀ “SÁCH” CHO HỌC SINH MÌNH nên mình cần đọc tất cả các sách và dù học sinh năm ngoái học sách này thì năm nay mình dạy sách khác vẫn tuyệt đối không vấn đề gì.
Thứ hai: các trường học chưa có học liệu đầy đủ. Điều đó khiến trách nhiệm mua sách – lẽ ra của nhà trường bằng ngân sách nhà nước – lại đổ lên đầu phụ huynh khiến họ không biết mua thế nào và bối rối, bức xúc.
Cái sai thứ nhất có thể khắc phục bằng cách đào tạo lại giáo viên.
Cái sai thứ hai đang được khắc phục bằng cách hướng tới tương lai cấp sách giáo khoa miễn phí cho học sinh.
Nhưng cả hai con đường ấy đều nhọc nhằn và tốn kém quá. Nhà nước và phụ huynh chọn cách rẻ và tiện hơn là … vứt bỏ ý tưởng về một chương trình “phức tạp” như vậy.
4. HƯỚNG ĐI NÀO ĐỠ TỆ NHẤT CHO MỘT LỰA CHỌN ĐÃ QUÁ TỆ HÔM NAY?
Giả sử, vì sức ép dư luận, đất nước quay lại một bộ SGK duy nhất. Khi đó, để chương trình không chết yểu, theo mình, cần làm ba việc:
Một là phải giữ nguyên tinh thần chương trình 2018: SGK dù chỉ một bộ cũng chỉ là phương tiện, không được “đóng khung” thành pháp lệnh. Giáo viên vẫn phải được quyền bổ sung ngữ liệu khác.
Hai là phải cứu chữa bằng chính sách thi cử: Tiếp tục tinh thần đổi mới trong kiểm tra, thi cử. Tuyệt đối không chọn tác phẩm/ trích đoạn trong sách giáo khoa để kiểm tra, kể cả kiểm tra thường xuyên. Như thế mới khiến việc học thuộc lòng theo sách trở thành vô nghĩa và sách không còn là “kinh thánh”.
Ba là phải thường xuyên cập nhật: Một bộ SGK duy nhất phải được sửa đổi liên tục, bổ sung ngữ liệu mới, không để học sinh cả nước lạc hậu.
Bốn là phải khuyến khích giáo viên sáng tạo: Cần chính sách bồi dưỡng để giáo viên không lệ thuộc SGK, mà vẫn thiết kế bài học phân hoá, tích hợp.
Mệt quá rồi, vì khi lên tiếng cho một chủ trương đã được toàn ngành thống nhất và được quốc hội thông qua, được đưa vào luật, thế mà mình lại bị chụp mũ là “chống đối” “không đứng về phía nhân dân” (trong khi mình rõ là dân đen chứ có tí vị trí nào đâu). Nên đây sẽ là bài viết cuối.
Mình vẫn biết mình là Don Quijote đánh nhau với cối xay gió. Mình cũng định nói mình “thấy cô đơn”. Song ngẫm lại, mình biết nhiều đồng nghiệp có suy nghĩ giống mình nhưng không dám ủng hộ mình bởi họ không có một tâm thế tự do như mình.
Lên tiếng thế này, mình vốn đã dễ bị tấn công là “phản động” nên đã cố điềm đạm kín kẽ, các bạn comment xin giúp mình chọn ngôn ngữ phù hợp. Nếu ngôn từ có gì gây nguy hiểm cho “sinh mạng chính trị”, mình xin phép xóa ạ.
________________
Nguồn:
Bài viết trên Facebook Vũ Thanh Tâm
No comments:
Post a Comment