Trong thời gian qua, một số tướng lãnh Hoa Kỳ tiên đoán Trung Cộng sẽ đánh chiếm Đài Loan trong năm 2027. Những diễn biến đang xẩy ra cho thấy trận chiến này có thể xẩy ra sớm hơn nhiều.
Trong chuyên mục BÌNH LUẬN hôm nay, kính mời quý thính giả theo dõi bài viết của THẾ VŨ, thành viên Ban Biên Tập Đài ĐLSN, tựa đề “’Đài Loan – Ngọn Nến Trước Cơn Gió Lớn”, sẽ do Miên Dương trình bày sau đây …
Đài Loan – Ngọn Nến Trước Cơn Gió Lớn
THẾ VŨ
DLSN
RadioDLSN
Tình hình tại eo biển Đài Loan đang bước vào một giai đoạn đầy nghịch lý: tưởng như bình lặng bên ngoài nhưng bên trong thì đang dậy sóng. Những diễn biến trong mấy ngày qua cho thấy cục diện vùng Đông Á đang đổi màu và những thế lực chung quanh Đài Bắc đều bị cuốn vào vòng xoáy căng thẳng chưa từng có kể từ sau cuộc khủng hoảng hỏa tiễn năm 1996.
Mở đầu là lời tuyên bố mạnh mẽ của Thủ tướng Nhật Bản ngày 10 tháng 11 vừa qua, khẳng định an ninh của Đài Loan gắn liền với an ninh Nhật Bản. Lời nói ấy, tuy phát biểu như một nhận định quen thuộc trong giới ngoại giao, lại làm Bắc Kinh nổi giận vì xem đây là một sự xác nhận công khai là Nhật Bản sẵn sàng dấn thân nếu Đài Loan bị tấn công. Ngay sau tuyên bố đó, các cơ quan truyền thông của Trung Cộng thi nhau phản ứng, cáo buộc Tokyo “can thiệp nội bộ” và đòi Nhật phải “tự kiềm chế”. Không khí trở nên nặng nề khi các giới chức ngoại giao hai bên đưa ra những lời cảnh cáo ngày một gắt gao, báo hiệu một kịch bản leo thang không ai mong muốn. Hôm qua, ngày 17 tháng 11, Bộ Ngoại Giao Trung Cộng loan báo đã hủy bỏ cuộc gặp giữa Thủ tướng Trung Cộng, Lí Khương, và nữ Thủ tướng Nhật Sanae Takaichi trong cuộc họp G20 tại Nam Phi, ngày 22 và 23 tháng 11 sắp tới.
Cùng lúc đó, Trung Cộng lại phô trương những tiến bộ vượt bực trong lãnh vực quân sự. Chiếc Hàng không Mẫu hạm Phúc Kiến, sau nhiều năm thử nghiệm, đã bước vào giai đoạn hoạt động thực sựngày vào ngày 5 tháng 11, được quảng bá như biểu tượng của sức mạnh biển khơi mới của Bắc Kinh. Đây là Hàng không Mẫu hạm thứ hai trên thế giới có trang bị hệ thống phóng điện từ (EMALS) giúp phi cơ cất cánh nhanh chóng và dễ dàng. Hải Quân Hoa Kỳ chỉ có duy nhất Hàng không Mẫu hạm Gerald Ford có hệ thống này. Bên cạnh đó là hai loại phi cơ tiềm kích mà Trung Cộng tán dương như niềm tự hào của kỹ nghệ quốc phòng: loại chiến đấu cơ tàng hình J20 và loại phi cơ không người lái J18. Hai loại phi cơ này có khả năng hoạt động dễ dàng trong đội hình hỗn hợp người lái và không người lái, và có thể vượt mặt nhiều mẫu phi cơ tối tân của Tây Phương. Dù thế giới còn hoài nghi về mức độ hiệu quả thật sự của những lời khoe khoang ấy, người ta vẫn phải nhìn nhận rằng Trung Cộng đang tạo ra một thế cân bằng mới, ít nhất trên mặt trận tinh thần, khiến Đài Loan phải tính toán cẩn trọng hơn. Có thể nói đảo quốc này chưa từng rơi vào vị thế nguy hiểm như hiện nay, khi hàng loạt chiếc chiến hạm và chiến đấu cơ của Trung Cộng bay lượn chung quanh, tạo áp lực tâm lý nghiêm trọng.
Và đây cũng là lúc mà Bắc Kinh còn lợi dụng tình trạng của Hoa Kỳ để gia tăng ưu thế. Hoa Thịnh Đốn bị phân tán vì cuộc chiến ở Ukraine, rồi tình hình Venezuela, cùng những tranh chấp đầy áp lực tại Trung Đông. Trong nước, dư luận chia rẽ chung quanh vấn đề dùng quân đội ở nước ngoài. Chính quyền đương nhiệm, với chủ trương hạn chế can dự quân sự, không muốn đem binh sĩ đi đánh thay cho đồng minh. Chính sách ấy khiến Bắc Kinh tin rằng Hoa Kỳ sẽ không can thiệp mạnh mẽ như hai mươi năm trước. Trung Cộng hiểu rõ rằng khi một đại cường bị phân tâm, những quyết định hệ trọng sẽ bị chậm lại, và sự chậm trễ ấy chính là khoảng trống mà Bắc Kinh muốn khai thác. Đài Loan cũng biết điều đó và càng lo lắng hơn, vì mọi kế hoạch phòng thủ đều phải dựa vào tốc độ phản ứng của Hoa Kỳ. Chỉ cần Hoa Thịnh Đốn lưỡng lự vài giờ, cục diện sẽ nghiêng hẳn về phía Bắc Kinh.
Nếu Trung Cộng dùng võ lực đánh Đài Loan, hậu quả sẽ lan rộng như một cơn địa chấn. Thế giới sẽ chứng kiến sự gián đoạn của toàn bộ mạng lưới sản xuất chất bán dẫn, vì Đài Loan đang giữ phần trọng yếu. Từ điện thoại, máy móc, xe hơi, cho tới các hệ thống chỉ huy quân sự, mọi thứ sẽ chao đảo. Kinh tế toàn cầu có thể lao vào khủng hoảng khi các thị trường mất niềm tin và những đường hàng hải trong vùng bị phong tỏa. Nhật Bản, Nam Hàn, Phi Luật Tân và cả vùng Đông Nam Á sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp vì những tuyến vận chuyển năng lượng và hàng hóa đều chạy qua khu vực ấy. Trong bối cảnh đó, Hoa Kỳ buộc phải có phản ứng, dù mạnh hay yếu, vì uy tín của một cường quốc không thể để sứt mẻ trước mắt đồng minh. Một cuộc chiến, dù không kéo dài, vẫn có thể làm rung chuyển các trật tự chiến lược đã tồn tại từ sau Thế chiến thứ hai.
Đối với Việt Nam, tình hình lại càng tế nhị. Nếu Trung Cộng nuốt trọn Đài Loan, và sẽ chiếm vị trí khống chế toàn bộ chuỗi đảo ngoài Biển Đông. Khi đó, những lời hứa hữu nghị sẽ càng trống rỗng hơn bao giờ hết. Việt Nam sẽ đứng trước một láng giềng vừa mạnh hơn, vừa hung hăng hơn, và không còn gì để ngăn cản Bắc Kinh áp đặt ý chí trên vùng biển mà nước này luôn cho là “lợi ích cốt lõi”. Cán cân quyền lực sẽ lệch hẳn về phía Bắc Kinh, và mọi nỗ lực giữ thế “đi giây” của Hà Nội sẽ trở thành vô nghĩa!
Một Đài Loan tự do là “bức tường mềm” bảo vệ Đông Nam Á. Một Đài Loan bị khuất phục là lời cảnh báo lạnh lùng cho cả khu vực, đặc biệt cho những quốc gia nhỏ như Việt Nam./.

No comments:
Post a Comment