Thursday, September 18, 2025

Nguyễn Hồng Lam – Xin bái biệt hào sĩ nông dân Lê Huy Ngọ
jeudi 18 septembre 2025
Thuymy


Đời làm báo, gặp gỡ, giao tiếp với quan chức không ít, nhưng người tôi cảm thấy vinh dự vì được tiếp xúc gần nhất thì chắc chắn là cố Bộ trưởng Lê Huy Ngọ.

Nói gần là hoàn toàn theo cự ly vật lý, chìa tay ra là có thể bắt tay, có thể trò chuyện, chất vấn trực tiếp. Không phải vài lần mà hàng chục lần. Còn ngoài đời, tôi không có quan hệ, tiếp xúc riêng nào với ông hết.

Sau hai lần giữ chức Bí thư tỉnh ủy (Vĩnh Phú và Thanh Hóa), năm 1997, ông Lê Huy Ngọ được phân công làm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (đến 2004) kiêm Trưởng Ban phòng chống Bão lụt Trung ương (đến 2008).

Năm 1997 tôi cũng bắt đầu làm báo chuyên nghiệp, ở đâu có sự kiện quan trọng là tự buộc mình phải có mặt. Mùa mưa bão hàng năm, tôi gặp ông luôn, phỏng vấn nhiều lần. Chưa bao giờ tôi thấy ông cười. Có mặt trong bão lũ, từ cán bộ đến người dân, cả phóng viên báo chí nữa, mặt ai cũng đăm chiêu lo lắng, cười sao nổi. Mà không gặp ông ở những lúc gian nan như thế, tôi còn biết gặp ông ở đâu ?

Trong hơn 10 năm, không có trận bão lụt lớn nào mà tôi không thấy ông ở nơi khó khăn nhất. Ông thường có mặt từ rất sớm và ở lại ngay giữa đợt thiên tai, nơi có vị trí xung yếu, tình thế khó khăn nguy hiểm nhất. Khuôn mặt chất phác, nói thẳng là hơi quá...nhà quê so với vị thế một Bộ trưởng, quần xắn tận gối, áo mưa sùm sụp, mái tóc thường không chải bết nước mưa, mặt khó đăm đăm, Bộ trưởng Lê Huy Ngọ như lẫn chìm giữa mối lo của vạn dân trăm họ.

Từ 5 giờ 30 sáng ngày 01/12/1999, trước đỉnh lũ đúng 24 giờ, khi hồ Phú Ninh (Quảng Nam) có nguy cơ bị vỡ, ông Lê Trí Tập, chủ tịch tỉnh Quảng Nam đã đứng chỉ đạo ngay trên mặt đập. Đến đầu giờ chiều, trời vẫn mưa như trút, đoàn công tác chính phủ do ông Lê Huy Ngọ dẫn đầu đến nơi, bàn bạc, cãi vã rất...hăng với ông Lê Trí Tập ngay trên mặt đập đắp bằng đất đang run bần bật.

Ông Ngọ hỏi : "Nếu mưa không giảm thì sao ? Vỡ đập thì sao ?". Người ướt sũng, vị Chủ tịch tỉnh kiên quyết : "Tôi đang đứng trên mặt đập, nếu vỡ đập, tôi sẽ là người đầu tiên bị cuốn cùng cơn lũ". Ông Ngọ quả quyết : "Tôi cũng đứng đây với anh, cho đến khi Trung ương quyết định, hoặc đến khi đập bị vỡ. Nhưng nổ mìn phá đập hay không, tôi hay anh cũng không có quyền quyết được. Nó liên quan sống chết của hàng vạn sinh linh".

Hồ Phú Ninh cách thị xã Tam Kỳ chỉ 7 km, rộng 23.409 hecta. Đáy tự nhiên của đập nằm ở cao độ 25 m, hai đập tràn sự cố Long Sơn I và Long Sơn II nằm ở cao độ 26 m. Cao trình đập phụ Dương Lâm ở đỉnh là 35 m. Đến chiều ngày 01/12/1999, mưa vẫn không ngớt. Tốc độ xả lũ 1.000 m3/s hầu như không ăn thua gì với tốc độ nước dâng trong đập. Chỉ cần mưa thêm khoảng 40mm, nước sẽ tràn qua và phá vỡ mặt đập.

Tình hình căng như một sợi dây đàn. Đến khoảng nửa đêm 01/12, ngưỡng 35 m sẽ bị nước phá vỡ. Lúc đó, cả công trình thủy lợi hồ Phú Ninh sẽ bị xóa sổ. Đại thảm họa đã gần kề. Để cứu đập chính và cả công trình, không còn cách nào khác, phải phá vỡ đập phụ Dương Lâm, cho nước tràn, theo đúng tiêu chuẩn thiết kế.

Lúc đó, nước sẽ tràn qua cao trình, mặt đập bằng đất chắc chắn sẽ bị nước phá vỡ ngay. Một khối nước 300-400 triệu m3 ngay lập tức từ độ cao 30 m sẽ đổ ập xuống. Khu vực thị xã Tam Kỳ với 160.000 dân, và cả vùng Thăng Bình, Duy Xuyên phía Bắc Tam Kỳ nữa sẽ bị biến thành một con sông không có bờ. Lũ sẽ cuốn đi bất kỳ thứ gì nằm trên dòng chảy của nó. Hàng chục, thậm chí hàng trăm ngàn người dân cũng sẽ bị cuốn phăng ra biển.

Ông Lê Trí Tập nhận định : "Nếu để nước tràn đập hoặc phá đập lúc nửa đêm, số người chết sẽ rất kinh khủng. Nếu không có đoàn công tác của Chính phủ, tôi sẽ là người quyết định, nhưng đã có đoàn ở đây, chúng tôi xin Trung ương cho quyết định : nâng cao trình mặt đập lên thêm 30 cm để kéo dài thời gian tràn đập nhằm cứu dân".

Lập luận của ông được xác tín bằng những số liệu quan trắc chắc chắn. Nếu mưa vẫn không giảm, với việc nâng cao cao trình mặt đập lên thành 35,3 m, hồ Phú Ninh sẽ đủ sức chứa thêm 17,3 triệu m3 nước, đủ để trì hoãn việc tràn đập đến tận sáng 02/12, thay vì nửa đêm như với cao trình hiện tại. Ông Tập bảo : "Đến lúc đó thì hết cách, có phá là trời phá chứ chúng ta không phá. Nhưng vỡ đập vào ban ngày, việc sơ tán, cứu dân chắc chắn hiệu quả hơn, giảm thiểu được tổn thất. Xin cho nâng mặt đập, tôi sẽ chịu mọi trách nhiệm".

Không khí cuộc họp ngay trên mặt đập căng như bong bóng. Đoàn công tác của Chính phủ đề nghị tạm hoãn cuộc họp để xin ý kiến chỉ đạo của Trung ương. Tiếp điện thoại của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu do ông Lê Huy Ngọ chuyển máy, ông Lê Trí Tập khẳng định : "Tình hình hiện tại chỉ có thể giải quyết tại chỗ, không thể chờ sự chi viện từ Trung ương hay địa phương khác. Quảng Nam đã có phương án sẵn, xin Trung ương cho tự quyết để thực hiện. Xin được làm ngay".

Sau khoảng 10 phút tranh luận căng thẳng, Bộ trưởng Lê Huy Ngọ quyết định ủng hộ ý kiến "sửa thiết kế" của Chủ tịch tỉnh : Cho bộ đội dùng 2.000 bao đất đóng sẵn, nâng cao cao trình mặt đập (dài 200 m) lên 35,30 m, bằng cách chồng 2 bao đất lên thành hàng. Khoảng 10 giờ đêm, phát lệnh nâng cao trình xong ông, ông Tập đứng bần thần, lo lắng. Ông Ngọ không về mà đứng lại xích gần hơn ông Tập : "Không cho nổ đập theo quy chuẩn thiết kế là làm trái pháp lệnh. Nhưng vì dân, tôi đồng tình với anh. Qua đêm nay, số phận cả anh và tôi sẽ được quyết định. Vỡ đập, dân chết, chúng ta cũng chết. Mà chết trước".

Người ướt sũng, không ăn uống, họ đội mưa đứng trên mặt đập nguyên đêm, chờ phán quyết của Trời, như những công bộc sẵn sàng vì người dân mà đứng chờ giây phút tuẫn nạn!

Gần sáng, khi nước sắp tràn ngưỡng hai hàng bao cát thì mưa ngớt, mực nước hồ giảm dần dần. Con đập vẫn đứng vững.

Không cười, cách nói hơi rề rà, ông Lê Huy Ngọ không phải là người khéo xuất hiện trước truyền thông. Không có bề ngoài sang trọng, hào nhoáng, khéo léo và linh hoạt của một chính khách, một Bộ trưởng, những nỗ lực và di sản của ông Lê Huy Ngọ cũng ít khi được bày ra rực rỡ. Ông không khi nào nhấn mạnh vai trò, công lao nhưng thành tựu thì rất lớn lao. Trong giai đoạn 7 năm ông giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Việt Nam vươn lên thành cường quốc xuất khẩu nông sản, nhất là ở nhóm lúa gạo và thủy sản nuôi trồng.

Ông là người khởi xướng và chỉ đạo phong trào phá thế độc canh của cây lúa, hình thành mô thức nông nghiệp chuyên canh với những "cánh đồng 50 triệu/hecta". Ông đã chỉ đạo, thúc đẩy các chương trình thủy lợi, phân bố hợp lý nguồn nước, kiên cố hóa kênh mương, mở rộng tưới tiêu cho thêm hàng trăm nghìn hecta. Ông cũng là quyết liệt bác bỏ, chống các dự án xâm hại rừng, chỉ đạo dự án trồng mới 5 triệu hecta rừng, nâng tỉ lệ che phủ rừng từ 33 % cuối thập niên 1990 lên gần 40 % cuối những năm 2000.

Năm 2004, trước khi ông rời ghế Bộ trưởng, ngành công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản Việt Nam đã lần đầu vượt mốc 1 tỉ USD, trở thành nước xuất khẩu đồ gỗ hàng đầu khu vực.

Những thành tựu ấy không đến từ bàn giấy hay những cuộc họp triền miên. Nó hiện ra sau hàng loạt chuyến đi vất vả, đúng lúc, như con thoi của ông đến tận cơ sở, vùng sâu vùng xa, ngay trong thiên tai, bão lũ hay hàng nhiều tháng trời hạn hán.

Ông Bộ trưởng ấy đích thực là một bậc hào sĩ : Tận tụy, liêm khiết, khảng khái, đầy tiết tháo. Cả đời, người ta chỉ thấy ông xuất hiện với vẻ ngoài tất bật, khắc khổ, chưa bao giờ nghe về ông với vướng chút điều tiếng thị phi nào. Ông là Bộ trưởng vất vả nhất.

Đùng phát, năm 2003, đại án Lã Thị Kim Oanh nổ ra, tàn phá thanh danh của một số bộ phận trong nhiều đơn vị thuộc Bộ mà ông đứng đầu. Dù kết quả kiểm tra, điều tra đều khẳng định ông không mảy may liên quan, không dính vào bất cứ sai phạm nào, không có kỷ luật nào, nhưng tự thấy với "trách nhiệm người đứng đầu" của Bộ Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, năm 2004 ông vẫn cương quyết xin từ chức Bộ trưởng. Tuy vậy, vị trí Trưởng ban phòng chống lũ lụt Trung ương đầy vất vả thì chưa có người thay, vẫn đeo đẳng và bắt ông phải gắn bó gian lao với người dân, nhất là nông dân trên cả nước thêm 4 năm nữa.

Chỉ sau 2008, khi đã "hoàn dân", những bức ảnh báo chí chụp ông mới thay đổi, vì nụ cười đã xuất hiện nhiều hơn, thường xuyên hơn trên khuôn mặt rất lão nông vốn mọi khi đều đăm đăm nỗi ưu thời mẫn thế !

 

Ngay cả đến khi đã "thanh thản như cày xong thửa ruộng" và nghỉ ngơi trong vĩnh hằng, ông vẫn cáo chung đời mình như một hàn sĩ. Tang lễ đơn sơ diễn ra nhanh, không rình rang. Cáo phó cũng chỉ giản đơn có mấy dòng : "Cụ ông Lê Huy Ngọ 1938 - 2025", không ghi thêm huân chương, thành tích hay chức vụ từng đảm trách. Ông ra đi nhẹ bẫng, không mang theo gì ngoài thanh danh một kẻ sĩ đất Việt.

Chiều nay, 18/09/2025, ông an lành về đất. Kẻ hậu sinh có mấy dòng thay nén hương xin kính bái biệt ông ! Bậc hào sĩ thanh bần lạc đạo như ông, tiếc thay, không phải trong đời ở đâu, khi nào cũng có thể gặp. Được may mắn tiếp xúc, quan sát, nghe ông nói, với hậu sinh cũng coi như một diễm phúc và mãn nguyện trong đời.

Kính tiễn ông an nghỉ !

NGUYỄN HỒNG LAM 18.09.2025

No comments:

Post a Comment