Monday, November 17, 2025

VNTB – Phụ nữ lệ thuộc luận
Nguyen Quoc Tan Trung
17.11.2025 5:05
VNThoibao

(VNTB) – Vụ việc về ông “Hiệu trưởng” hay “Chủ tịch trường” gần đây thấy mọi người giỡn nhiều quá, nên bài viết này hy vọng mang lại một cái nhìn nghiêm túc hơn, và có tính cảnh báo hơn.

 Đối với phe tự do, John Stuart Mill, năm 1869, trình bày tác phẩm lừng danh On the Subjection of Women (Tạm dịch: Sự Lệ thuộc của Phụ nữ).

Trong tác phẩm này, ông cho rằng quá trình lệ thuộc hóa một giới tính đối với một giới tính khác là sai lầm trầm trọng. Không có một căn cứ tự nhiên hay lý tính nào có thể lý giải thẩm quyền của người đàn ông đối với người phụ nữ, và nó đơn giản chỉ là những phong tục được kế thừa giả trang thành luật tự nhiên.

Mối quan hệ giữa nam và nữ, vì vậy, phải là bình đẳng tuyệt đối (“perfect equality”).

Theo Mill, phụ nữ chưa làm được những điều đàn ông làm được, bởi chính xã hội chưa bao giờ trao cơ hội cho người phụ nữ khi mà quyền tiếp cận giáo dục, quyền tiếp cận với các cơ hội kinh tế – chính trị, và quyền bình đẳng pháp lý… dành cho phụ nữ đều bị khước từ.

Ông cũng đặc biệt tấn công định chế pháp lý gia đình của nước Anh ở thời điểm đó, cho rằng nó không khác gì một hợp đồng nô lệ. Người phụ nữ trong hôn nhân bị mất quyền kiểm soát tài sản của họ, con cái của họ, và cuối cùng là thân thể của họ.

Giải pháp mà ông đặt ra, là một định chế pháp lý hoàn toàn bình đẳng giữa vợ chồng trong gia đình, với người phụ nữ thoát khỏi các hoạt động nội trợ và tự do tham gia vào thị trường lao động. Chỉ có như vậy, xã hội loài người mới không phí hoài một nửa những tài năng của mình.

***

Phe xã hội, không thua kém, tung ra The Origin of the Family, Private Property and the State (tạm dịch Nguồn gốc của Gia đình, Tư sản, và Nhà nước) của Friedrich Engels, vào năm 1884.

Trong tác phẩm này, Engels lái câu chuyện của sự bất bình đẳng nhắm đến phụ nữ sang vấn đề tư hữu tài sản. Theo ông, quá trình đàn áp có hệ thống dành cho phụ nữ bắt đầu với sự hình thành của tư sản, và gọi đây là “thất bại lịch sử của nữ giới trong dòng chảy thế giới” (tạm dịch từ “the world historic defeat of the female sex”).

Từ nền tảng phân tích này, ông cũng tấn công định chế gia đình, cho rằng các gia đình phụ hệ thật ra cũng là mô hình thu nhỏ của mối quan hệ giai cấp. Người đàn ông là bọn tư sản (“bourgeois”), còn người phụ nữ chính là giai cấp vô sản (“proletariat”). Ông giải thích rằng người phụ nữ là giai cấp vô sản bởi họ bị cắt đứt khỏi quá trình sản xuất của xã hội và định khung trong các hoạt động nội trợ, vốn không thể xác lập giá trị lao động trên thị trường.

Giải pháp mà Engels đặt ra?

Mang phụ nữ vào các chương trình sản xuất và phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. Cùng lúc đó, nhà nước hóa và giải phóng phụ nữ khỏi các hoạt động nội trợ như chăm sóc trẻ em, nấu nướng, dọn dẹp nhà cửa…

Đi xa hơn, trong một xã hội không còn tư hữu tài sản, khi sản xuất và tích lũy không còn là vấn đề của xã hội nữa, hành vi kết hôn sẽ chỉ thuần túy là tự nguyện, dựa trên những “rung cảm thật sự”, mà ông gọi là “individual sex-love”.

***

Hai chẩn đoán khác nhau, nhưng thật ra lại đưa cùng một bài thuốc:

(1) Gia đình là căn nguyên, là cái gai trước hết của sự lệ thuộc hóa người phụ nữ.

(2) Người phụ nữ tham gia vào quá trình lao động và sản xuất xã hội là con đường quan trọng nhất để cân bằng quyền lực kinh tế, từ đó thoát khỏi lệ thuộc.

Nói vui theo các chuyện kể thời Chiến tranh lạnh:

Ở xã hội tư bản, phụ nữ “bị” ép vào đời sống xí nghiệp.

Ở các xã hội như Soviet, phụ nữ “được” giải phóng và… tự nguyện tham gia đời sống xí nghiệp.

Cả hai nền tảng lý thuyết, thật ra đều là các lý thuyết kinh tế – chính trị “năng suất”. Đến cuối cùng, chúng đều cùng muốn trích xuất sức lao động của chúng ta cho các chương trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo những tầm nhìn vĩ mô khác biệt mà thôi.

Nói theo ngôn ngữ của sử gia Wendy Goldman trong cuốn sách nổi tiếng về nữ quyền ở Soviet: Women, the State and Revolution (xuất bản năm 1993), quá trình giải phóng người phụ nữ tại liên bang chỉ được thực hành trong mức độ nào mà nó còn phục vụ tích cực cho các mục tiêu kinh tế – chính trị của nhà nước.

Khi quyền phụ nữ thách thức hay gây trở ngại cho các mục tiêu ấy, hệ thống ấy nhanh chóng bị vô hiệu hóa.

Ví dụ, dù hợp pháp hóa quyền nạo phá thai vào năm 1920 với danh nghĩa giải phóng phụ nữ, chính quyền Soviet nhanh chóng ngăn cấm quyền này vào năm 1936 khi có những dự báo sụt giảm nhân lực trầm trọng. Cùng lúc đó, “đẻ” trở thành một chỉ tiêu thi đua nhà nước.

***

Quan trọng hơn, không ở bất kỳ hoàn cảnh nào người phụ nữ thoát khỏi những thao túng, cám dỗ, hay tấn công tình dục.

Nghĩ rằng bình đẳng kinh tế, tham gia vào quá trình lao động xã hội, hay thậm chí là sự tiêu biến của tư sản sẽ giải phóng người phụ nữ, đang quên đi rằng còn rất nhiều trật tự quyền lực khác vẫn, sẽ, và luôn tồn tại.

Nghĩ rằng gia đình hạt nhân là “đơn vị” bóc lột hay phân biệt đối xử nhất đối với người phụ nữ quên rằng còn hàng loạt các định chế và quyền lực khác có thể bóc lột và lạm dụng người phụ nữ nhiều hơn một khi đơn vị trên vụn vỡ.

Và con người cũng không phải chỉ là một loài động vật kinh tế.

Con người còn là một loài động vật chính trị (“political animal”), xã hội (“social animal”), cảm xúc (“emotional animal”), và thậm chí phi lý trí (“irrational animal”)… vốn phản ứng khác nhau trước những kích khởi khác nhau.

***

Nói dông dài, chỉ là vài suy nghĩ nhỏ khi thấy nhiều người cho rằng những hiện tượng nói trên là dấu hiệu cho thấy sự băng hoại của xã hội, sự xuống cấp của đạo đức.

Có lẽ không phải vậy.

Đây là những gì chúng ta sẽ thấy, và buộc sẽ phải thấy trong tương lai, vì chính những lựa chọn ý thức hệ trong kinh tế – chính trị – xã hội của chúng ta mà thôi.

Định chế gia đình đúng là từng bị hủ hóa, dẫn đến những yếu kém mà giới triết gia Trung kể trên đã chỉ ra. Nhưng nó cần được sửa chữa, không phải bị loại trừ. Trong một video ngày xưa của Hội Đồng Cừu nói về vì sao loài người lại một vợ một chồng, một trong những phát hiện thú vị của nhóm là giả định quan trọng của giới khảo cổ – sử gia cổ đại về việc chính các cá thể cái chọn ra (hay ít nhất là yêu thích) chế độ một vợ một chồng hơn cả.

Ác hóa định chế gia đình, hay cho rằng nhà nước có thể làm thay những chức phận của gia đình, hay “individual sex-love” mới là con đường giải phóng phụ nữ, thật ra lại quên đi cái gốc cổ đại căn bản nhất của monogamy.

***

Cuối cùng, về mặt triết học hay thần học, nếu loài người còn mơ mộng về tình yêu chung thủy đời đời, nơi mà hôn nhân được xem là điều thiêng liêng, vĩnh cửu, nơi mà cả vợ và chồng đều có trách nhiệm tôn trọng và gắn kết với nhau tuyệt đối, nơi mà chỉ “nghĩ” về ngoại tình thôi cũng đã là tội ác cần phải cứu chuộc, họ chỉ có thể tìm được nơi trú ẩn trong những lời giảng và nền tảng đạo đức của Chúa Jesus mà thôi.

______________

Nguồn:

Bài viết trên Facebook Nguyen Quoc Tan Trung

https://www.facebook.com/share/p/14LSbGaVzou/?mibextid=wwXIfr

No comments:

Post a Comment