Bản chất tầm gởi của trí thức Việt Nam? (Phần 1)Nguyễn Hoàng Văn
26-7-2025
Tiengdan
Tác giả trân trọng cám ơn ông Nguyễn Văn Huy (Pháp), Nguyễn Gia Kiểng (Pháp) và Sơn Dương (Úc) về những thông tin và tài liệu liên quan đến nhân vật Nguyễn Khắc Viện.
Sinh thời, khi bị chất vấn rằng “trí thức” mà sao lại mang cả cuộc đời ra ủng hộ một chế độ như cộng sản, Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện – người rất thích danh xưng “sĩ phu hiện đại” – đã phủ đầu ngay rằng, hãy chỉ cho ông một tổ chức chính trị khá hơn [1].
Bằng lời đáp này ông Viện có thể đã chứng tỏ được tài ăn nói, nhưng, trên tầm vóc trí thức, lại bộc lộ ngay sự bất xứng, tầm thường. Sính làm “sĩ phu hiện đại” mà vẫn chưa thoát ra khỏi não trạng của kẻ sĩ thời trung đại khi công danh sự nghiệp, hầu như, hoàn toàn phụ thuộc vào việc tìm minh chúa, như là loài tầm gởi.
Tầm gởi là giống bán ký sinh, hemiparasitic, có thể tự quang hợp chất hữu cơ cho nhu cầu tăng trưởng nhưng sự sống vẫn phụ thuộc vào cây chủ và đó cũng cách lập thân dựng nghiệp của kẻ sĩ ngày xưa. Thì họ cũng có chí lớn, có tài, có sở học nhưng, tất cả, phải gởi gắm vào một minh chúa như là cây chủ. Chủ mạnh khỏe, tốt tươi thì họ sung mãn, tươi tốt. Chủ mà yếu ớt, bệnh hoạn, họ sẽ toi đời.
Nếu Nguyễn Khắc Viện chỉ là một số lẻ nhỏ nhoi của lịch sử, nhắc tới thì thêm vài thông tin mà bỏ qua cũng chẳng sao, thì với cả những nhân vật đầy ảnh hưởng, gắn liền với một giai đoạn lịch sử nào đó, ít nhiều chúng ta vẫn có thể nhận ra quan hệ này. Như Nguyễn Trãi, một trí thức kiệt xuất mà tài năng thể hiện ở đủ khía cạnh quân sự, chính trị, ngoại giao và văn chương. Lỗi lạc như vậy mà, cuối đời, khi bị giải ra pháp trường, Nguyễn Trãi phải đau đớn thốt lên lời ân hận rằng sao trước đây không chịu nghe lời Đinh Phúc và Đinh Thắng, là hai viên hoạn quan mà tầm nhìn chỉ quanh quẩn trong mấy tường màn phủ kín nội cung! [2]
Để hiểu mấu chốt vấn đề, cần bắt đầu từ quan hệ giữa Nguyễn Trãi và Lê Lợi, một quân sư và một minh chủ. Phụng sự dưới trướng một anh hùng, Nguyễn Trãi thể hiện tài năng lừng lẫy với chiến lược Bình Ngô, với chiến thuật “mưu phạt tâm công”, với “Bình Ngô đại cáo”, áng thiên cổ hùng văn, đi trước nhân loại đến bốn thế kỷ với ý niệm “quốc gia” v.v… [3].
Nhưng khi Lê Lợi lên ngôi, trở thành Lê Thái Tổ, quan hệ lại khác đi, giữa thiên tử ngôi cao và bề tôi phía dưới. Lê Thái Tổ bây giờ đã là một ông vua “đa nghi hiếu sát”, nơm nớp cảnh giác với những nhân tài gần gũi nhất, lạnh máu trừ khử những công thần từng sinh tử với mình như Trần Nguyên Hãn, như Phạm Văn Xảo thì, trong sự căng thẳng và phức tạp của nền chính trị thâm cung, Nguyễn Trãi chỉ có thể thu mình, cam chịu [4].
Sử nhà Lê không ghi chép việc Lê Thái Tổ bỏ tù Nguyễn Trãi, tuy nhiên, trong một bài thơ còn truyền lại, Nguyễn Trãi từng ta thán cảnh tù ngục vào năm 50 tuổi mà, tính ra là năm 1429, cái năm Trần Nguyên Hãn phẫn uất chết bên một bến sông [5]. Có như thế thì, khi thừa lệnh Lê Thái Tôn để viết văn bia về Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi đã cặn kẽ nhắc lại mười năm kháng chiến mà, với sáu năm làm vua, chỉ bàn cho có lệ [6].
Sự thể còn tệ hơn với Lê Thái Tôn, một ông vua “tài giỏi biết giữ cơ đồ” nhưng “đam mê tửu sắc”, và nếu “chủ” đã vậy thì thân tầm gởi cũng sa sút theo [7]. Đầu tiên, vì chán ngán sau những mâu thuẫn về lễ nhạc với Lương Đăng, một hoạn quan, Nguyễn Trãi đã cáo quan, trở về quê ngoại với thú điền viên:
Về đi sao chẳng sớm toan,
Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?
(Côn Sơn Ca)
Như là nhà tư tưởng đi trước nhân loại với ý niệm “quốc gia”, chúng ta có quyền kỳ vọng rằng, một khi đã rời bỏ chốn quan trường tàn khốc để thong dong hòa mình giữa thiên nhiên, Nguyễn Trãi có thể toàn tâm xây dựng nên một nền tảng học thuật nào đó và, có vậy, với sự phát triển cũng như áp dụng của những thế hệ tiếp nối, những thế hệ sau này như Phan Khôi, đâu phải tự ti về sự nghèo nàn khi luận về “Quốc học”?
Nhưng “thú điền viên” này, xét cho cùng, cũng là một chọn lựa chính trị. Khi quan trường trở nên bấp bênh, đầy may rủi, giới nho sĩ mới nhận ra rằng họ phải tính đường lùi, phải thủ thân để, lúc cùng đường vẫn có thể “hưởng nhàn” như những bậc địa chủ. “Thú điền viên”, như thế, chính là trò thanh cao hóa cho một tính toán thực dụng. Không phải là ngẫu nhiên mà thú ấy chỉ nổi lên theo những áp lực gay gắt của chính trị cung đình. Cũng không phải ngẫu nhiên mà đỉnh cao của nó, nghệ thuật làm vườn, chỉ thăng hoa trong xã hội thuần túy nông nghiệp [8].
Và Nguyễn Trãi, sau khi về với thiên nhiên một thời gian ngắn, không chỉ quay lại mà còn nhúng tay sâu hơn vào chính trị của cung đình. Nguyễn Trãi lúc này, phải chăng, đã bất chấp lời khuyên của hai hoạn quan am hiểu việc hậu cung khi cho cô vợ trẻ vào cạnh vị vua nhỏ tuổi hơn nhưng háo sắc để dễ bề thao túng? [9].
Nhưng Nguyễn Trãi không đương đầu nổi với quyền lực hậu cung và đã trả giá đau đớn, thảm khốc. Mà chính thứ quyền lực này đã từng bước đẩy nhà Lê vào đường suy vong, mở cửa cho họ Mạc tiếm ngôi và, bấy giờ, lại nổi lên khuôn mặt của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nấn ná tìm minh chủ, Nguyễn Bỉnh Khiêm phớt lờ những khoa thi cuối Lê đầu Mạc, đợi đến năm 1535 khi Mạc Đăng Doanh chứng tỏ được phẩm chất của một ông vua sau năm năm trị vì, mới chịu ra mặt thi thố và đậu Trạng Nguyên khi đã nửa đời người, 44 tuổi.
Hơn đời với cốt cách cao đạo nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm có phải gánh chịu phần nào trách nhiệm cho cái cuộc đời mà mình nhìn bằng con mắt của kẻ vượt thoát, ngồi trên? Nho giáo suy tàn thì ông, một nho sĩ, ẩn mình chờ minh chúa. Ông, thậm chí, còn tiếp tay cho tình trạng chia cắt và nội chiến khi hành động như một kẻ dửng dưng bên lề, hoàn toàn không chủ kiến, hoàn toàn ba phải, thế lực nào cũng được ông ta cố vấn, vẽ đường. Ông khuyên Trịnh Kiểm nên giữ nhà Lê: “Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, nên tìm giống cũ mà gieo mạ” và nền chính trị lằng nhằng với ngôi Vua và phủ Chúa. Ông vấn kế cho Mạc Mậu Hợp “Tha nhựt quốc hữu sự cố, Cao Bằng tiểu địa, sổ thế khả duyên”, nhà Mạc lui về cát cứ ở Cao Bằng. Ông lại bày mưu cho Nguyễn Hoàng “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” và xứ Đàng Trong ra đời.
Biết bao máu xương và tài nguyên đã bị vứt những xung đột giữa nhà Trịnh với nhà Mạc, đặc biệt giữa nhà Trịnh và nhà Nguyễn với bảy lần chiến chinh rải đều xuyên suốt một thế kỷ rưỡi?
Thời loạn, theo lý, là thời đại thai nghén nên những anh hùng nhưng cái thời nội chiến dằng dai này lại vắng hẳn những bóng dáng lồng lộng của hình mẫu “nho sĩ – anh hùng” của thời Lý – Trần, như một Phạm Ngũ Lão chữ nghĩa chẳng kém ai lại hiên ngang giữa núi sông với cây giáo cầm ngang, đằng sau là ba quân khí thế đằng đằng, lay động cả sao trời:
Hoành sáo giang sơn cáp kỹ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
Vũ hầu, tức Gia Cát Lượng, không hổ thẹn khi nghe nhắc cái tên này là giấc mơ công danh của người trai trong lý tưởng “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Khi đích cuối, và cao nhất, là “bình thiên hạ” thì, lẽ thường, thế cuộc càng náo loạn, công danh của kẻ sĩ mới càng có cơ hội vinh danh, thế nhưng vấn đề còn là bản chất của thời loạn.
Với loạn ngoại xâm thì phân biệt chính – tà thực quá rõ ràng nên chọn lựa của người hùng cũng quá rõ ràng. Nhưng với loạn “nội xâm” thì chính nghĩa nhiều khi không đứng hẳn về bên nào và chân dung của “minh chúa” sẽ càng mờ mịt, nên, trong bối rối, trong tuyệt vọng, kẻ sĩ đành thu mình ở mức “tu thân, tề gia”. Đây, có lẽ, chính là trường hợp của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thất bại khi dâng sớ lên Mạc Hiến Tông đòi nghiêm trị 18 lộng thần, Nguyễn Bỉnh Khiêm chán nản từ quan về quê “vui thú điền viên”, giữ cốt cách thanh cao mà cười cợt thế thái nhân tình.
Nghĩa là nếu không thể làm “người hùng” thì thôi, hãy làm “người hiền” nhưng đây chỉ là bước tiến – thoái của kẻ sĩ trong xã hội nông nghiệp thuần túy.
(Còn tiếp)
__________
Tham khảo:
1. “Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện (1913 -1997) là một bác sĩ, một nhà văn, nhà báo, nhà sử học, triết học có tầm cỡ quốc tế. Sinh thời, ông thích hơn cả là danh xưng sĩ phu, một sĩ phu hiện đại với những cống hiến canh tân đất nước…” (“Nguyễn Khắc Viện và những tư tưởng canh tân đất nước”, Nguyễn Sĩ Đại): https://kinhtedothi.vn/nguyen-khac-vien-va-nhung-tu-tuong-canh-tan-dat-nuoc.html
Thông tin về cuộc chất vấn trên tôi thuật lại theo trí nhớ từ một bài viết cách đây khoảng 25 năm, hiện chưa truy lục lại được.
2. “Tháng 9 ngày 9 giết bọn hoạn quan Đinh Phúc, Đinh Thắng, vì khi Nguyễn Trãi sắp bị hành hình, có nói hối là không nghe lời của Thắng và Phúc”. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Quyển XI Kỷ Nhà Lê, Thái Tông Văn Hoàng Đế.
Ý niệm quốc gia, như Đào Duy Anh đã tóm tắt trong Hán Việt từ điển: “Một cái tổ chức có đủ ba yếu tố: thổ địa, nhân dân và chủ quyền, ta thường gọi là một nước”.
Ý niệm này chỉ hình thành ở Âu châu vào thế kỷ 18 và đến với người Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Như từ thế kỷ 14 thì Nguyễn Trãi đã n êu ra ba yếu tố này trong “Bình Ngô Đại Cáo”:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
3. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Quyển X, Kỷ Nhà Lê, Thái Tổ Cao Hoàng Đế.
4. Nguyễn Lương Bích (2003), Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước, NXB Quân Đội Nhân dân, trang 467.
5. Nguyễn Lương Bích, sđd, trang 141-142
6. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Quyển XI Kỷ Nhà Lê, Thái Tông Văn Hoàng Đế.
7. Trần Chí Hoa, “Viên lâm cổ đại”, trong Lịch sử Văn hóa Trung Quốc”, Đàm Gia Kiện chủ biên (1993) Nhà xuất bản Khoa học xã hội, trang 726 – 744. Bản dịch của Trương Chính, Nguyễn Thạch Giang, Phan Văn Các.
8. Tạ Chí Đại Trường (2004) Sử Việt đọc vài quyển, Văn Mới, California, trang 137. Theo tác giả, có thể Nguyễn Trãi đã bỏ qua lời khuyên của Đinh Phúc và Đinh Thắng để tham gia sâu và trò chơi chính trị nội cung khi đưa vợ mình là Thị Lộ vào cung để gần gũi Lê Thái Tôn.
9. https://baotiengdan.com/2017/07/19/to-gan-luan-ve-bac-si-nguyen-khac-vien/
Và bài phản biện của Nguyễn Khắc Phê, em trai ông Nguyễn Khắc Viện: https://vanviet.info/thu-ban-doc/lai-bn-ve-nguyen-khac-vien-v-sch-viet-nam-mot-thin-lich-su/
Có thể tham khảo bản tiếng Việt tại: https://nhasachmienphi.com/viet-nam-mot-thien-lich-su.html
No comments:
Post a Comment