Lê Nguyễn – Chuyện mười năm cũjeudi 31 juillet 2025
Thuymy
MỘT NHÀ SINH ĐẶNG BA VUA …VÀ MỘT NGỘ NHẬN LIÊN QUAN ĐẾN CÁI CHẾT CỦA VUA DỤC ĐỨC
Sau khi vua Tự Đức thăng hà, sự kiện “bốn tháng ba vua” và câu ca dao :
“Một nhà sinh đặng ba vua / Vua còn, vua mất, vua thua chạy dài” đã được phổ biến khá sớm, chúng nói lên những biến động liên tục tại triều đình Huế dưới quyền sinh sát của hai Phụ chánh đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết. Bài viết này dựa vào các nguồn sử liệu khả tín, song sự dị biệt giữa nhiều nguồn tư liệu khác nhau vẫn là điều khó lòng tránh khỏi.
Như hầu hết các vua nhà Nguyễn khác, vua Tự Đức có nhiều phi tần bên cạnh, nhưng suốt 36 năm ở ngôi, ông không hề có con. Để có người truyền lại ngôi báu, ông đã đưa ba người cháu ruột vào cung làm con nuôi :
- Ưng Chân sinh năm 1852, con thứ hai của Thoại thái vương Hồng Y (con thứ tư vua Thiệu Trị), được đưa vào Viện tập hiền năm 1868 để các quan nội các dạy học. Tháng 4 âm lịch 1869, vua cho lập Dục Đức đường để Ưng Chân ra đọc sách.
- Ưng Kỷ (hay Ưng Đường), sinh năm 1864, con trưởng Thuần Nghị Kiên Thái vương Hồng Cai (con thứ 26 vua Thiệu Trị), vào cung năm lên 2 tuổi, giao cho bà Thiện phi họ Nguyễn nuôi dạy, năm 1879 ra đọc sách tại Chánh Mông đường.
- Ưng Đăng, sinh năm 1869, con thứ ba Thuần Nghị Kiên Thái vương, vào cung năm 2 tuổi, được bà Học phi Nguyễn Văn Thị nuôi dạy, năm 1882 ra đọc sách ở Dưỡng Thiện đường.
Vì thế, về sau sử quán và nhiều tác giả dùng cách gọi ngắn gọn Dục Đức, Chánh Mông, Dưỡng Thiện thay cho tên của ba ông hoàng này.
Ưng Kỷ (sau là vua Đồng Khánh) và Ưng Đăng (sau là vua Kiến Phúc) là anh em cùng cha cùng mẹ (bà Bùi Thị Thanh), còn Ưng Lịch (sau là vua Hàm Nghi) là em cùng cha khác mẹ với hai người kia (con bà Phạm Thị Nhờn). Một vài trường hợp ngộ nhận cho Ưng Lịch cũng được vua Tự Đức đưa vào cung làm con nuôi. Kỳ thực, ông không có được may mắn đó. Người ta kể rằng hôm được triều đình mang võng lọng đến nhà rước vào cung lên ngôi vua (thay vua Kiến Phúc chết bất ngờ), cậu bé Ưng Lịch mới 13 tuổi còn đang bắn cu-li với chúng bạn ngoài chợ Đông Ba.
Như vậy câu “Một nhà sinh đặng ba vua” ứng với ba người con của Kiên Thái vương Hồng Cai là Kiến Phúc, Hàm Nghi và Đồng Khánh (theo thứ tự làm vua). Còn trong câu : “Vua còn, vua mất, vua thua chạy dài” thì vua còn là Đồng Khánh (từ tháng 9.1885), vua mất là Kiến Phúc (1884), còn vua thua chạy dài là Hàm Nghi (tháng 7.1885), phải xuất bôn ra khỏi kinh thành Huế sau khi mưu định đánh úp quân Pháp bất thành, bị giặc phản công. Hai câu trên ra đời sau khi vua Đồng Khánh đã lên ngôi.
Ngày 17.7.1883, vua Tự Đức lâm bệnh nặng, truyền lập di chiếu cử ông hoàng Dục Đức, tước Thụy quốc công, lên thay với sự giúp sức của ba Phụ chánh đại thần là Trần Tiễn Thành (đệ nhất), Nguyễn Văn Tường (đệ nhị) và Tôn Thất Thuyết (đệ tam). Trong di chiếu có câu : “Phả hiếu dâm, diệc đại bất thiện, vị tất năng đương đại sự” (tính rất hiếu dâm, lại là đại bất thiện, không chắc đương nổi việc lớn). Ba ông Phụ chánh vội dâng sớ xin bỏ đoạn đó trong di chiếu nhưng nhà vua không ưng thuận, lấy cớ là nói thế để kích thích lòng hướng thiện, sửa sai của tân quân.
Có lẽ nhà vua chọn người con nuôi này là do lúc đó ông đã 31 tuổi, còn ông Hòang Chánh Mông thì trẻ quá, mới 19 tuổi. Ngày 19.07.1883, vua Tự Đức băng. Trong lúc chuẩn bị lễ tang cho nhà vua thì những bất đồng đã bắt đầu nhen nhúm trong quan hệ giữa tân quân và hai Phụ chánh Tường và Thuyết, dẫn đến việc vua Dục Đức bị phế truất chỉ sau mấy ngày.
Chuyện phế truất này được nhiều nguồn tư liệu kể lại với nhiều tình tiết khác nhau, chỉ xin nêu theo nội dung của sách Đại Nam thực lục, rằng sau khi vua Tự Đức nằm xuống, tự quân (ông hoàng Dục Đức) triệu các Phụ chánh đại thần đến, đưa ra ý kiến nên lược bỏ đoạn kể xấu ông khi tuyên đọc di chiếu. Cả ba ông phụ chánh đều đồng tình với việc này. Song ngay sau đó, hai phụ chánh Tường và Thuyết lại bàn riêng với nhau một mưu định khác.
Trong ngày lễ tức vị diễn ra tại điện Thái Hòa ngày 25.07.1883, người đọc di chiếu là Trần Tiễn Thành, có Tôn Thất Thuyết đứng bên cạnh. Khi đọc đến đoạn nói về tật xấu của vua Dục Đức, ông Thành đọc nhỏ và không rõ ràng (theo thỏa thuận từ trước). Nguyễn Văn Tường đứng ở một nơi xa hơn, bắt bẻ Thành sao lại giấu bớt di chiếu ? Sau đó ông Thành bị cả hai cùng vặn hỏi, biết là mình đã bị đánh lừa, nói chữa rằng ông đang bị ho, đọc đến đấy hết hơi, tiếng nhỏ (Đại Nam thực lục – Quyển 8 – NXB Giáo Dục 2007, trang 579).
Ngay sau đó, kịch bản được thực hiện, hai ông Tường và Thuyết họp các Hòang thân và quan lại, xin phế truất ông Dục Đức, lập vua khác. Thụy quốc công Ưng Chân bị đưa trở về Dục Đức đường, có người canh giữ kỹ. Sự phế bỏ ông kéo theo số phận ít nhất hai quan chức triều đình.
Phụ chánh Trần Tiễn Thành lúc đó làm Văn Minh điện đại học sĩ (Chánh nhất phẩm), trên cả Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, từng có nhiều bất đồng với ông Thuyết về sách lược đối với Pháp. Trong lúc Tôn Thất Thuyết là người cầm đầu phe chủ chiến ; Nguyễn Văn Tường với sự khôn ngoan của một nhà ngoại giao, không tỏ rõ lập trường, thì Trần Tiễn Thành là hiện thân của phe chủ Hòa, chủ trương mọi vấn đề cần được giải quyết qua thương lượng với Pháp. Mối bất đồng đã tiềm tàng từ trước giờ lại thêm sâu sắc do phẩm trật và cương vị của Trần Tiễn Thành lấn át cả Tường lẫn Thuyết.
Đêm 29.11.1883, ngay trong ngày vua Hiệp Hòa bị giết theo lệ tam ban triều điển, thì Trần Tiễn Thành cũng bị đạo quân Phấn nghĩa của Tôn Thất Thuyết giết tại nhà riêng ở khu Chợ Dinh.
Trong vụ phế truất vua Dục Đức, người duy nhất trong hàng quan lại dám đứng lên phản đối là Ngự sử Phan Đình Phùng. Cụ bị bỏ ngục Cẩm Y rồi sau đó bị tước hết quan chức, đuổi về làng. Người ta cho rằng Phụ chánh Tôn Thất Thuyết có lý khi đối xử nhẹ tay với cụ Phan, vì trong hàng quan lại lúc bấy giờ, Phan Đình Phùng là người có tinh thần chống Pháp triệt để, phù hợp với chủ trương của Thuyết. Thuyết và Nguyễn Trọng Hợp nhìn thấy ở cụ Phan một phụ tá đắc lực cho kế hoạch toàn quốc kháng chiến mà ông đang chuẩn bị ráo riết (qua việc xây đồn Tân Sở như một kinh đô “dự phòng” ở Quảng Trị).
Điều này được thực tế lịch sử chứng nghiệm vào tháng 8.1885, khi Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi đến Quảng Bình ban bố hịch Cần vương, cụ Phan đã từ quê nhà đến bệ kiến nhà vua và cùng Thuyết bàn bạc kế hoạch kháng chiến. Từ ấy đến năm 1895, cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng thể hiện tinh thần bất khuất của nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ.
Về số phận vua Dục Đức, đáng tiếc là có những ngộ nhận quan trọng về cái chết của ông, và lạ lùng hơn, phần lớn người ngộ nhận là những cây đa cây đề trong làng nghiên cứu sử học. Theo học giả Đào Trinh Nhất trong tác phẩm “Phan Đình Phùng” (NXB Tân Việt-Sài Gòn-1957), ông Dục Đức bị giam trong ngục tối, mỗi bữa chỉ ăn được một nắm cơm rồi mấy ngày sau không được ăn gì và chết đói trong ngục.
Học giả Đào Duy Anh trong một bài viết về Trần Tiễn Thành đăng ở tạp chí Tri Tân năm 1942 (từ trang 774) cũng xác định ông Dục Đức mất trước ngày ông Trần Tiễn Thành bị đạo quân Phấn nghĩa của Tôn Thất Thuyết giết (ngày 29.11.1883). Riêng nhà nghiên cứu sử người Pháp A. Delvaux, trong một bài viết dài gần 100 trang nhan đề “Quelques précisions sur une période troublée de l’histoire d’Annam” (Vài điều cần làm rõ về một thời kỳ nhiều biến động trong lịch sử Việt Nam), khẳng định là ông Dục Đức mất vào ngày 06.10.1883, tức hơn hai tháng sau ngày ông bị phế truất (tài liệu đã dẫn, Tập san Đô thành hiếu cổ - BAVH số 3 năm 1941, trang 233).
Gần đây hơn, tài liệu Nguyễn Phước Tộc giản yếu do ban liên lạc Nguyễn Phước Tộc tại thành phố Hồ Chí Minh in năm 1992 (phát hành nội bộ) cũng ghi ngày chết của Dục Đức là 06.10.1883 (Phải chăng căn cứ vào tài liệu của Delvaux ?).
Nếu căn cứ vào chính sử thì những tài liệu kể trên có sự sai sót khá nghiêm trọng, sự sai biệt về thời gian đến hơn một năm trời ! Sách Đại Nam thực lục chép rõ:
“HÀM NGHI ĐẾ
" Giáp Thân năm Kiến Phúc thứ nhất (1884). Tháng 9, mùa Thu, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết dời để vua mới nối ngôi là Thụy quốc công xuống ngục rồi giết ngầm đi ... rồi hai người bí mật không cho tự quân ăn uống. Đến ngày mùng 6 tháng ấy là ngày Đinh Mùi, giờ Thìn, thì tự quân chết ở ngục...”
(Đại Nam thực lục quyển 6 – NXB Giáo Dục 2007 - trang 109)
Như vậy, vua Dục Đức mất sau cả vua Kiến Phúc (mất ngày 10.06 Giáp Thân tức 31.07.1884), dưới triều vua Hàm Nghi (song vẫn giữ niên hiệu Kiến Phúc đến hết năm Giáp Thân 1884). Ông mất 1 năm 3 tháng sau ngày bị phế truất, không chỉ sau chưa đầy 3 tháng như nhiều tài liệu đã nhầm lẫn. Điều này cần được đính chính rộng rãi cho phù hợp với thực tế lịch sử.
LÊ NGUYỄN (31.07.2015 – 31.07.2025)
No comments:
Post a Comment