Bản chất tầm gởi của trí thức Việt Nam? (Phần 2)Nguyễn Hoàng Văn
26-7-2025
Tiengdan
Tiếp theo phần 1
Khi nội chiến đã là một quá khứ thật xa, đất nước không chỉ thu về một mối cho thương nghiệp và đô thị phát triển, chúng ta lại thấy sự hình thành của hình mẫu “nhà Nho tài tử”, như Nguyễn Công Trứ:
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người tái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng…
(“Bài ca ngất ngưởng”)
Đầu tiên là một Nguyễn Công Trứ sĩ nhập thế với sự nghiệp trên đủ khía cạnh quân sự, kinh tế – xã hội và văn chương. Kẻ sĩ này thi thố tài năng chủ yếu dưới thời Minh Mạng, vị vua được xem là sáng suốt nhất triều Nguyễn với những cải cách hành chính, chính trị, quân sự, kinh tế. Nghĩa là, như đã nói, “cây chủ” đã là một ông vua sáng suốt thì kẻ sĩ dưới trướng cũng vinh quang theo.
Bên cạnh đó còn là một Nguyễn Công Trứ hào hoa với dáng dấp thị thành: “Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng…”. Xã hội chỉ biết có ruộng đồng thì, có lên voi xuống chó, Nguyễn Công Trứ bất quá chỉ có thể rút lui và tìm quên với “thú điền viên”. Nhưng thương mại đã phát triển và thú vui đã chuyển về thị tứ thì kẻ sĩ mới phóng khoáng hơn, có thể tự cởi bỏ những phép tắc khô cứng trên khía cạnh “tu thân, tề gia”. Kẻ sĩ bây giờ không chỉ hướng đến cái hùng mà còn hướng đến cái tài, cái tình.
Rồi đến những va chạm với chủ nghĩa thực dân và Nho giáo lâm vào cảnh suy tàn. Từ đây, với làn gió mới từ phương Tây, kẻ sĩ lại vươn đến tinh thần duy lý và phê phán, có thể nhân danh tự do cá nhân để thách thức sự áp đặt của những luân lý truyền thống và thay đổi con người cùng xã hội. Đó là cuộc vận động đổi mới của Tự Lực Văn Đoàn: “Theo mới. Hoàn toàn theo mới không chút do dự”.
Đó là cuộc vận động Duy Tân của Phan Châu Trinh, cũng là hoàn toàn đổi mới. Và đó, như là sự nhẫn nại của Phan Khôi khi mổ xẻ những giáo điều, những quan niệm cổ hủ v.v… Cơ hồ, một chân trời mới đã hé mở cho đất nước và cho con người nhưng, tiếc thay, lịch sử đã bị chặn đứng rồi kéo lùi với sự bạo hành của một thứ “tân Nho giáo”, cái ý thức hệ mà ông Nguyễn Khắc Viện nói là “khá” nhất.
“Khá” nhất mà nó, ý thức hệ cộng sản, triệt tiêu hoàn toàn những nỗ lực đổi mới. Nó dìm chết tự do, cái riêng tư và cái cởi mở trong tư tưởng và trong học thuật mà, bằng chứng rõ ràng, là chính ông Nguyễn Khắc Viện. Ông Viện được truy tặng Giải thưởng Nhà nước cho công trình sử học viết bằng Pháp ngữ Việt Nam, một thiên lịch sử nhưng đó, thực chất, là thứ viết theo đơn đặt hàng, viết theo chủ trương và nghị quyết, không có gì khả dĩ gọi là một tìm tòi hay phát hiện riêng.
Trong “thiên lịch sử”, ông ta trơ trẽn ca ngợi “văn phong súc tích, ngôn ngữ tinh tế” trong những “luận văn chính trị” của Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp. Rồi ông ta xem đó như “những tác phẩm văn học đánh dấu một thời kỳ”. Và, y như khi Trần Huy Liệu ngoan ngoãn rập theo quan điểm bạo lực cách mạng của Lê Duẫn mà hạ nhục Phan Thanh Giản, ông ta lại hết lời ca ngợi Phan Bội Châu vì chủ trương bạo động trong khi hạ thấp Phan Châu Trinh đến mức thấp nhất, xem như một “nhà cải lương” bởi chủ trương “bạo động tất ngu” v.v… [10]
Hay như Hoàng Xuân Nhị, nhân vật Tây học đã đảm nhiệm vai trò Chủ nhiệm khoa Ngữ văn của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội từ năm 1957 đến năm 1982. Được ca ngợi như là một “trí thức toàn đức toàn tài”, ông ta đã vứt bỏ nhân cách trí thức của mình khi cố làm một học trò ngoan của Joseph Stalin [12]. Ông trơ tráo kết luận rằng dân tộc Việt Nam chỉ “bắt đầu hình thành vào năm 1930 khi đảng cộng sản ra đời”, nghĩa là, tuổi dân tộc không thể cao hơn tuổi đảng hay, tính vào thời điểm tuyên bố, dân tộc Việt Nam chỉ có vỏn vẹn “23 năm văn hiến”. Sự thật, như Đào Duy Anh đã chỉ ra, ông Nhị đã hiểu sai ý của Stalin và, do đó, đã sai về lịch sử, sai trầm trọng, và sai rất đáng khinh [14].
Điều đáng chú ý là cả hai, Nguyễn Khắc Viện và Hoàng Xuân Nhị, đã từng chạy theo phát xít khi Đức Quốc Xã xâm chiếm nước Pháp và, điều này, nhìn từ góc độ tầm gởi, cũng chẳng có gì là lạ. Nếu ông Viện, sau này, theo cộng sản vì không thấy ai khá hơn thì lúc đó, ông có mở lòng với chủ nghĩa phát xít là cũng do chẳng tìm thấy ai khá hơn. Theo lối Phạm Quang Lễ, tức Trần Đại Nghĩa, vốn đã sang Đức từ năm 1942, tháng Ba năm 1943 ông Viện cùng ông Nhị và cùng nhiều bạn bè Việt Nam khác sang Belrin học tập hay huấn luyện bằng học bổng của Đức Quốc Xã rồi, tháng Ba năm sau, khi cùng trở lại Paris, lại cho ra đời tờ báo Nam Việt với lập trường thân phát xít mà, trong đó, ông Viện là thành viên biên tập cuồng nhiệt nhất [15].
Đây là cách sinh tồn, là bám vào cây chủ “khá nhất” của từng giai đoạn, cái thói quen phò chính thống của trí thức Việt Nam? Hay đó là một sự “giác ngộ” trong sự hạn hẹp của nhận thức chính trị theo từng thời thế?
Trong thế thắng ban đầu của Đức Quốc Xã, những thành phần cực hữu Âu châu cuồng lên với cái tên Adolf Hitler. Họ tin rằng tên mỵ dân này có thể thống nhất Âu châu như thể là Charlemagne, hay Carolus Đại Đế, người đã, vào cuối thế kỷ thứ tám và đầu thế kỷ thứ chín, thống hợp nhiều sắc tộc Frank – thuộc dân tộc Đức ngày nay – sống dọc theo sông Rhine để đối đầu với Đế quốc Đông La Mã. Đến khi Đức xé bỏ hiệp ước bất tương xâm để tấn công Nga vào tháng Sáu năm 1941, họ lại xem đó là vị cứu tinh có thể giúp Âu châu dẹp tan chủ nghĩa cộng sản.
Còn ông Viện? Ông Viện tôn sùng phát xít vì đâu, chúng ta khó mà biết được nhưng rõ ràng là ông ta đã vỡ mộng với phát xít và, y hệt loài tầm gởi, lại quay sang cộng sản. Và đến cuối đời, đầu thập niên 1980, khi vỡ mộng với cộng sản, ông chỉ biết viết “kiến nghị” như là kẽ sĩ xưa dâng sớ để rồi bị chính cái thể chế “khá” này rút phép thông công [16].
Vỡ mộng phát xít thì theo cộng sản. Vỡ mộng với cộng sản thì nộp … kiến nghị. Nhưng kiến nghị có thẳng thắn hay quyết liệt đến mấy cũng chỉ để bàn những chuyện đã rồi và đây, cảnh dâng sớ hay gởi kiến nghị, bất quả chỉ tạo thêm chút cảnh sắt náo nhiệt vào cái chu kỳ khốn đốn của dân tộc vậy thôi. Mà đó lại là chu kỳ khốn đốn trong chiều hướng đi xuống bởi, nếu thời nay có lập lại y nguyên thời xưa, đó đã là một sự thụt lùi.
Mà trò kiến nghị ngày nay, tự nó, càng là một bước thụt lùi. Có dâng sớ thì kẻ sĩ xưa, chủ yếu, dâng sớ lúc đương chức, lúc còn quá nhiều thứ để mất, và khi tiếng nói của mình không được tôn trọng, họ chấp nhận đánh mất bằng cách từ quan. Còn trí thức nay thì, phần đông, thường lên tiếng khi đã về hưu, không còn hay còn rất ít để mất.
Trong “Vân đài loại ngữ” Lê Quý Đôn đã dành ra chương “Sĩ Quy Loại” với 76 điều khoản về “cách xử sự của kẻ sĩ khi ra làm quan” và đây, thực chất, chính là một thứ “nghệ thuật làm quan”. Bây giờ, nếu sống lại, không rõ Lê Quý Đôn sẽ cập nhật thêm bao nhiêu nữa nhưng, rõ ràng, phải có thêm “nghệ thuật dâng sớ”, thứ nghệ thuật lên tiếng sao không bị thiệt thòi, bên cạnh một điều khác mà, nói theo Nguyễn Tuân, là “nghệ thuật sợ”.
Đất nước đã mất mát bao nhiêu tài nguyên, xương máu và thời gian mà vẫn chưa thấy đích, phần nào, cũng từ cái “nghệ thuật tồn tại” của những “trí thức” như thế. Trí thức mà không thể hiện trách nhiệm phê phán, vạch ra sự thật và dự báo, từ đầu. Trí thức mà không thấy đủ cánh rừng, chỉ tỷ mỹ giới hạn với từng thân cây, với cái trước mắt. Và trí thức mà, với cung cách vô nhân từ đầu, và từ cả lý thuyết, của phát xít hay của cộng sản, cũng không dự cảm được thảm họa mà chúng sẽ mang lại.
Chính vì thiếu những phẩm chất đó nên ông Nguyễn Khắc Viện mới nuôi mộng rồi vỡ mộng, ít nhất là hai lần. Bây giờ, rất nhiều “trí thức”, sau khi vỡ nhiều thứ “mộng” khác nhau, lại đắm chìm vào giấc mộng mới mang tên Donald Trump, một kẻ mà, về bản chất, cũng dân túy, cũng phản trí thức như Hitler, vị anh hùng của ông Viện thời trẻ [17].
Nếu xưa, ở Âu châu, một số ít “trí thức” cánh hữu nhìn Hitler như là bậc Đại Đế có thể thống nhất Âu châu hay ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản thì “trí thức” Việt thời nay, phần đông, cũng nhìn Trump như thế. Họ xem Trump là bậc anh hùng có thể chặn đứng Trung Quốc và, tiện thể, có thể phăng chủ nghĩa cộng sản trên đất Việt Nam.
Nhưng Việt Nam hiện tại đâu còn là một thiết chế cộng sản nữa? Nó đang là một cơ chế lợi ích nhóm mà giới nghiên cứu gọi là “chủ nghĩa tư bản thân hữu” (crony capitalism). Và ông Trump, như nhân loại đang chứng kiến, đang cố tình hủy hoại nền dân chủ Mỹ, đang chăm chăm biến nền tảng chính trị nước Mỹ thành một hệ thống “thân hữu” mang lại lợi nhuận cho gia tộc và vây cánh của mình.
Ông Nguyễn Khắc Viện, trong nửa cuộc đời còn lại, đã không dám hé môi dù chỉ một lời về quá khứ phát xít của mình [18]. Mai này, sẽ có bao nhiêu “trí thức” của chúng ta sẽ phải se mặt cúi đầu khi bị nhắc lại cái thời phò Trump này? Trước mắt, số lượng đông đảo của họ, và sự “kiên định” của họ, đang làm tôi thấy rõ hơn bản chất tầm gởi của trí thức Việt Nam, vừa khiến tôi quặn lòng nghĩ đến tương lai của đất nước mình. Khi những thành phần ưu tú như thế mà lại dễ dãi phung phí niềm tin như thế thì, dân tộc chúng ta, để được sống ngẩng cao đầu, còn phải đánh mất bao nhiêu cơ hội nữa?
__________
Tham khảo:
10. “Dấu ấn Hoàng Xuân Nhị”: http://daidoanket.vn/dau-an-hoang-xuan-nhi-558410.html
11. Trong hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm (NXB Văn Nghệ TPHCM- 2002) Đào Duy Anh viết: “Trong Tập san Đại học sư phạm số 5 thì ông Hoàng Xuân Nhị lại cho rằng mãi đến năm 1930 với sự thành lập của Đảng cộng sản Đông Dương ‘lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, trải qua mấy nghìn năm, dân tộc Việt Nam bắt đầu hình thành’.” (Trang 150).
Đào Duy Anh không nói rõ năm tháng phát hành, tuy nhiên suy diễn theo các thông tin trong bài thì tập san này phát hành vào đầu năm 1956.
12. Đào Duy Anh, sđd. Theo Đào Duy Anh thì ông Hoàng Xuân Nhị hiểu sai ý của Stalin.
Năm 1913, Stalin viết cuốn sách mà bản dịch Anh ngữ là Marxism and the national question, các tài liệu tiếng Việt dịch tên cuốn sách này là “Chủ nghĩa Mác và vấn đề dân tộc”. Tiếng Nga “Нация” (natia), trong tiếng Anh, Pháp và Đức cũng là “nation”, nếu dịch sang tiếng Việt là có thể dịch là “quốc gia” và “dân tộc”, tuy nhiên đây là hai khái niệm khác nhau.
Khái niệm “dân tộc” thì đã có từ lâu, còn khái niệm “quốc gia” – như là sản phẩm của cuộc cánh mạng kỹ nghệ và dân quyền tại Âu châu — chỉ đến với Việt Nam từ cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20. Stalin đã đưa ra nhiều cách giải thích mù mờ nên khiến nhiều người lẫn lộn.
Đầu tiên Stalin cho rằng “nation” là cộng đồng hình thành sau khi chấm dứt đời sống bộ lạc. Thế nhưng trong phần chính, khi nói về lịch sử các nước Âu châu, Stalin cho rằng để gọi là “nation” thì phải hội đủ 4 yếu tố chung: kinh tế, ngôn ngữ, lãnh thổ, tâm lý, trong đó yếu tố kinh tế được xem quan trọng nhất.
Nhận ra điểm sai này nên năm 1929 Stalin cho xuất bản cuốn The National Question and Lenism để giải thích tiếp, cho rằng có nhiều loại “nation” trên thế giới, và loại “nation” đã nhắc trong cuốn sách năm 1912 là nói về các “nation tư sản”.
Đào Duy Anh cho rằng Hoàng Xuân Nhị tiếp tục hiểu sai ý của Stalin. Sau khi tham khảo Đại bách khoa toàn thư Xô viết, Hoàng Xuân Nhị khẳng định “Theo sự nghiên cứu của khoa học viện Liên Xô… thì trên thế giới chỉ có hai loại dân tộc thôi” ( dân tộc tư sản và dân tộc xã hội chủ nghĩa, sđd tr.154 – 155).
13. Charles Keith, “Vietnamese Collaborationism in Vichy France”, The Journal of Asian Studies Vol. 76, No. 4 (November) 2017, 987–1008: https://www.viet-studies.com/kinhte/VietnamVichyColla_Nov17.pdf
Giữa năm 1943 Nguyễn Khắc Viện cùng Hoàng Xuân Nhị, Lê Văn Thiêm, Trần Văn Du, Lê Viết Hương, Nguyễn Hoán, Phan Thuyết sang Belin bằng học bổng của Đức Quốc xã. Tháng Ba năm sau thì ông trở lại Paris cùng một số bạn bè và cho ra đời tờ Nam Việt có lập trường thân Phát xít mà, trong thành phần biên tập, có cả Hoàng Xuân Mãn, anh ruột ông Hoàng Xuân Nhị. Trước đó thì Phạm Quang Lễ (tức Trần Đại Nghĩa) đã sang Đức làm việc trong ngành hàng không vào năm 1942.
Nguyên văn tiếng Anh: “But this changed when several of members of the Amicale accepted scholarships in mid-1943 to travel to Berlin to study. The students (TrầnnVăn Du, Hoàng Xuân Nhị, NguyễnKhắcViện, Lê Văn Thiêm, Lê Viết Hương, Nguyễn Hoán, Phan Thuyết, and perhaps others) received six thousand francs per month and room and board. They were following the lead of their friend and colleague Phạm Quang Lễ, an engineer recruited by German officials in 1942 from the École Nationale Supérieure de l’Aéronautique to work in the German aeronautical industry. French sources claim that a group known as “Studenwerh [most likely Studentenwerk] für Ausländer” (Services for Foreign Students) recruited the Vietnamese students to study in Berlin.”
Trong Ban biên tập Nam Việt có Hoàng Xuân Mãn, anh ông Hoàng Xuân Nhị.
15. “Bàn về bác sĩ Nguyễn Khắc Viện”, Nguyễn Thanh Giang: https://www.bbc.com/vietnamese/forum/story/2006/01/060125_nguyenkhacvien
16. “Trump’s America: Anti-Intellectual and Proud of It”: https://archive-yaleglobal.yale.edu/content/trumps-america-anti-intellectual-and-proud-it
17. Nguyễn Khắc Viện (2004) Ước mơ & Hoài niệm, NXB Nhà xuất bản Đà Nẵng, trang 15-20.
Trong hồi ký này ông Nguyễn Khắc Viện (NKV) không đề cập gì đến những chuyện này. NKV cho biết ông phát hiện bệnh ho lao từ đầu năm 1942, sau khi kết quả chẩn đoán được xác nhận, ông được đưa đến một dưỡng đường (Sanatorium) tại thành phố Grenoble, cách Paris 600 km. Sức khỏe hồi phục thì Nguyễn Khắc Viện lao ra làm “công tác Việt kiều” và cuối năm 1943 bệnh tái phát nặng nên phải mổ phổi, mát ½ khả năng thở, trong tình trạng này ông phải năm yên một chỗ trong một năm, không nói chuyện, chỉ tập trung thở [Nguyễn Khắc Viện (2004)
Tuy nhiên hồ sơ lưu trữ Pháp cho thấy Nguyễn Khắc Viện chỉ nhập viện tại đây vào năm 1944. Charles Keith, bđd: https://www.viet-studies.com/kinhte/VietnamVichyColla_Nov17.pdf
18. Nguyễn Khắc Viện, sđd, trang 185
No comments:
Post a Comment