Thursday, November 20, 2025

Nhớ nghề
Nguyễn Thông
20-11-2025
Tiengdan

Hôm nay tây lịch 20.11. Mấy đứa sinh viên thuê trọ ở căn đối diện nhà tôi ngay từ tối qua đã bày bán hoa tươi trên vỉa hè trước cửa. Bọn trẻ bây giờ nhanh nhạy, biết làm ăn, nhưng khổ, tự mình xoay xở kiếm ăn tha hương, ráng đỡ gánh nặng cho gia đình. Bà xã tôi bảo, cứ mỗi lần ngó chúng bày hoa, nào dịp 8.3, 20.10, 20.11, rồi tết dương lịch, tết âm lịch, cứ thương thương, ngậm ngùi làm sao ấy.

Xứ mình nhiều ngày lễ, trong đó có lễ riêng của nhà giáo, những người làm nghề dạy học. Cứ tới tháng 11 là không chỉ thầy lẫn trò mà dư luận xã hội cũng lao xao chộn rộn về ngày 20, ngày Nhà giáo Việt Nam.

Ngày này, trên báo chí cũng như phây búc (tờ báo điện tử lớn nhất thế giới), nhiều người viết bài viết tút về nghề dạy học, về thầy cô giáo, đọc cảm động. Trong những thứ nghĩa tình của con người, có lẽ tình thầy trò được xem là đẹp nhất, cảm động nhất. Ngay cả hồi nhỏ đi học bị thầy cô nện, dùng thước kẻ khẻ ngón tay hoặc bắt quỳ gai mít, vẫn được coi là kỷ niệm đẹp, biết ơn.

Bỉ nhân cũng từng gắn với nghề này, những gần hai chục năm. Nhưng đời giáo nằm gọn trong thời kỳ đất nước khó khăn vất vả bi kịch thê thảm nhất, nên ký ức phần lớn là chuyện buồn. Ngại kể lắm. Có lẽ phần vui, phần đẹp còn lưu lại đến giờ là tình đồng nghiệp trong cảnh nghèo, là lòng yêu mến của gần hai chục lứa học trò đối với mình, thậm chí vẫn nguyên vẹn sau gần nửa thế kỷ.

Thú thực, chả bao giờ tôi nghĩ mình sẽ theo nghề dạy học, còn gọi là sư phạm, thế mà lại đứng bục giảng chừng ấy năm trời. Hồi nhỏ tôi rắn mày rắn mặt, chỉ thích đi bộ đội hoặc làm lính biên phòng, chứ không thích làm thầy giáo. Người định một đằng, trời quyết một nẻo, chả thể nào tính được.

Tôi chính thức vào nghề giáo học từ ngày 25.4.1977, dạy một mạch đến tháng 12.1993, khi đang là tổ trưởng Bộ môn Xã hội (văn sử địa) thì… đói quá, xin nghỉ đi làm thuê cho một công ty nước ngoài. Hồi ấy gọi là đánh pắc (nói tắt tên của tổng thống Đại Hàn Pắc Chung Hy, nguời cho quân lính sang Việt Nam đánh thuê). Thông thường người đánh pắc vừa chân trong chân ngoài nhưng tôi thấy nản nghề quá nên nghỉ dạy luôn. Đồng lương giáo học khi ấy không đủ nuôi thân chứ nói gì nuôi cả vợ con.

Đời dạy học của tôi gắn với Trường dự bị đại học TP.HCM gần 18 năm (từ năm 1977 đến 1993, thêm 2 năm 1995 – 1996 sau đó). Gần như phần tuổi xuân, cái thời hăng hái nhất tôi gắn với nghề dạy, sau này bỏ nghề, những lúc vẩn vơ nghĩ lại cũng tiêng tiếc.

Trong suốt gần hai chục năm, Trường dự bị đại học TP.HCM nổi tiếng là trung tâm luyện thi uy tín, mỗi năm thu hút hàng nghìn học sinh khắp cả miền Nam. Nhưng không phải thầy cô nào cũng khá lên nhờ luyện thi đại học. Chủ yếu là các môn phục vụ khối thi A và B thôi (toán, lý, hóa, sinh) chứ đám thầy cô văn sử địa hầu hết đói dài. Tôi cố trụ mãi nhưng học sinh luyện thi môn văn cứ ngày càng teo tóp dần.

Túng đói quá thì phải… liều. Nhà trường cho phép công đoàn tổ chức giữ xe cho sinh viên. Đám giáo viên đói được ưu tiên tham gia. Thầy Hùng đùa, cứ gò má nhô cao tùy cỡ mà xét. Thật trớ trêu, cứ đầu giờ thì tay cục phấn, tay cầm nắm thẻ xe, ghi số, thu tiền, học sinh vừa dắt xe vào, vừa “em chào thầy, cô ạ”. Lúc đầu thầy cô còn chào lại nhưng chả giấu hết sự ngượng ngùng, về sau chúng hắn biết ý không chào nữa, lặng lẽ đưa tiền, tiền dư cũng không lấy lại. Chuông reo, thầy cô rửa tay, vuốt vội bộ quần áo, lại trèo lên bục giảng ê a tác phẩm này hay, tác phẩm kia tốt. Có hôm còn dạy cả tác phẩm “Sống mòn” của Nam Cao, có hôm dạy bài về nghề cao quý của người thầy do ông Phạm Văn Đồng viết. Nhìn vào mắt trong veo của học trò, biết chúng nghĩ gì. Trớ trêu vô cùng.

Có những thầy cô ngượng, giữ xe được vài bữa thì bỏ. Nhưng phải làm cái gì mà sống chứ. Thế là người nuôi gà, người nuôi cá trê phi, nuôi chim cút, làm sữa chua, bỏ mối nước đá… Mỗi phòng ở phân cho hộ gia đình trong ký túc xá chỉ chưa đầy 20 mét vuông. Thầy Tuấn dạy địa lý dẹp hết cả đồ đạc giường chiếu vào một góc, nuôi gần 5 chục con gà mái đẻ trong phòng. Chưa bước vào nhà đã sặc mùi phân gà, mùi cám, mùi khổ ải. Thầy Vy dạy văn mua gạch xây hẳn trong căn hộ cái bể to đùng nuôi cá trê phi. Nước máy không đủ dùng, người tắm cũng phải hạn chế, tiết kiệm từng giọt nhưng nước cho các “ông bà trê phi” (thầy Vy bảo thế) lúc nào cũng phải đủ phải sạch.

Nhà tôi cũng bị cuốn vào cơn bĩ cực ấy, đa hệ đủ cả, nuôi gà, xỏ mành trúc, làm yaourt, dán phong bì, xếp diêm que vào hộp… Nhà nước khó khăn không nuôi nổi thì mình đành nhờ cậy “các ông bà” gà, lợn, chim cút, trê phi gánh đỡ qua cơn hoạn nạn chứ biết làm sao.

Đời dạy học những năm đó khổ trăm bề. Bây giờ nhìn lại, có thể nói mà không sợ nhỡ mồm: Chưa bao giờ ở nước ta trong lịch sử nền giáo dục, hình ảnh người thầy lại thê thảm khốn nạn như vậy, ngay cả thời “sống mòn” của Nam Cao cũng không đến nỗi thế.

Con thuyền giáo dục xứ này, buồm thì rách nát, thuyền trưởng và thủy thủ lọng cọng, u tối, chưa cần ra biển rộng, chỉ quanh quẩn trong cừ kênh mương rạch ao tù hồ cạn cũng đã đủ chao đảo, chấp chới, đắm chìm.

Chả muốn kéo dài tình trạng vừa lên lớp vừa giữ xe muối mặt với học trò, vừa nuôi gà công nghiệp, nuôi cá, dán phong bì… nên đầu năm 1993 tôi quyết định xin nghỉ, đi làm thuê cho một công ty may nước ngoài. Thầy Nguyễn Văn Vy bạn tôi, đùa bảo, giá dấn đi thêm tí nữa ra bến Nhà Rồng nhân tiện tìm đường cứu nước cứu nhà luôn, có phải một công đôi việc không. Chua chát lắm.

Giờ kể lại vẫn thấy buồn. Biết thế đừng kể.

Tôi thành thật xin lỗi khi gợi chuyện buồn trong không khí vui chung.

Nhiều lúc ngẫm nghĩ thấy buồn cho nghề, cái nghề mà có thời lòng tôi ca hát “Yêu người bao nhiêu, ta càng yêu nghề bấy nhiêu”.

No comments:

Post a Comment