VNTB – Cố GS Võ Đăng ĐàiLê Bá Vận
08.09.2025 5:11
VNThoibao
Ngày 22/5/2025 Hội ra thông báo:
Quý Anh Chị Em thân mến,
Xin phép được nhắc lại quý anh chị em chúng ta đến đưa tiễn lần cuối GS. Võ Đăng Đài, vị Thầy đáng kính của chúng ta, đồng thời phân ưu với Cô và đại gia đình tang quyến. Vào sáng thứ Bảy, ngày 24 tháng 5, tại nhà quàn O’Connor Mortuary, 25301 Alicia Pkwy, Laguna Hills, CA 92653.
Năm 1954 sau hiệp định Genève tôi vào Nam và đến ở tại Học xá Trung Việt, đường Bùi Quang Chiêu, gần chợ Bến Thành. Ở đó mấy năm tôi quen rất nhiều bạn Huế và Quảng song lại không hề được gặp anh Võ Đăng Đài, học Dược, dù chỉ ghé đến Học xá thăm hỏi bạn bè, đông đảo.
GS VĐ Đài được tuyển dụng vào trường Y khoa Huế từ đầu, năm 1961. Ông là dược sĩ tốt nghiệp tại Sài Gòn năm 1958, phụ tá cho các giáo sư Đức tại khu Sinh hóa của trường. Ông được trường gởi đi tu nghiệp tại Tây Đức năm 1965-1968 để lấy bằng Tiến sĩ Sinh hóa học. Lúc trở về ông là trưởng khu (bộ môn) Sinh hóa thay thế các giáo sư Đức về nước.
Ông ít nói, song dễ tính, dễ tiếp cận, khiêm tốn.
Tôi là bạn nhưng chưa phải là bạn thân của GS Đài, chưa rủ nhau ra quán uống ly cà phê, bát phố, đánh bài, xem chiếu bóng… Hồi ở Huế tôi ít có dịp làm việc với ông. Ngày 26/12/1967 GS Bùi Duy Tâm được cử làm khoa trưởng YK Huế và rồi chọn ông làm phó khoa trưởng hành chánh thì tôi đang học ở Mỹ. Cuối năm 1972 trường có khoa trưởng mới thì ông được cử làm phụ tá viện trưởng ĐH Huế, chuyển công tác vào Sài Gòn, phụ trách văn phòng đại diện ĐH Huế bên cạnh ĐH Sài Gòn và Bộ Giáo dục, thỉnh thoảng ra Huế giảng dạy.
Năm 1973 phái đoàn ĐH Huế do phó viện trưởng GS Nguyễn Văn Hai làm trưởng đoàn cùng GS Võ Đăng Đài phụ tá viện trưởng, các GS/BS ban giám hiệu trường ĐH YK Huế đã công du Thái Lan, thăm ĐH BangKok Và ĐH Chiang Mai. Đó là lần độc nhất tôi cùng đi với ông.
Thái Lan năm 1973, phái đoàn Đại học Huế thăm Đại học Thái Lan gồm GS Nguyễn Văn Hai, phó viện trưởng, GS Võ Đăng Đài, phụ tá viện trưởng, các GS/BS Lê Bá Vận, LV Bách, Nguyễn Văn Tự, khoa trưởng vá các phó khoa trưởng trường ĐHYK Huế.
GS Võ Đăng Đài có bốn bài viết phổ biến trên trang mạng YK Huế Hải ngoại.
1) Gia Hội của tôi.
2) Vá và Vàng.
3) “Tính Sổ Một Đoạn Đường” nói về trường YKH thời đó, người và việc.
4) Lời Cám Ơn, viết gửi tặng vợ tháng 10 năm 2013. (1)
Trong 4 tác phẩm trên thì “Lời Cám Ơn” là áng văn tuyệt tác, văn phong đơn giản, mộc mạc nhưng diễn tả được tình cảm sâu đậm, chân thành mà lãng mạn đối với người bạn đời mà người chồng đã viết lời cám ơn và đây là bài viết tôi xin giới thiệu. Lời Cám Ơn này rất độc đáo về nhiều phương diện: hoàn cảnh, thời điểm, nội dung, lời xưng hô….
Thông thường vợ chồng chỉ viết thư cho nhau khi sống xa cách và người vợ ở nhà hằng trông đợi thư chồng đi làm xa gửi về. Nay thì có điện thoại, email. Đang sống chung hàng ngày thì vào các dịp lễ tình yêu, kỷ niệm sinh nhật, thành hôn… người chồng có thể tặng quà cho vợ, gửi bưu thiếp ghi lời chúc mừng, bày tỏ lòng yêu thương, sự cám ơn.
Thời điểm GS Đài gửi lời cám ơn vợ là độc đáo giữa lúc đêm khuya, vào một ngày bình thường:
“Hiền muội muội. Tỉnh giấc nửa đêm, thấy Muội ngủ say, Huynh rón rén mở cửa ra vườn để ngắm nhìn vạn vật về đêm… lòng Huynh thấy nhẹ nhàng và nhớ lại những vui buồn của ngày tháng qua, Huynh ghi vội vài dòng để Muội đọc.
[Viết xong thì] Đêm đã khuya lắm rồi, Huynh đã bắt đầu buồn ngủ và đang cảm thấy lạnh, cái lạnh của mùa đông còn sót lại. Huynh sẽ đi vào nằm lại bên cạnh Muội, tìm lại hơi ấm của Muội, hơi ấm đã luôn ôm ấp và bao che Huynh”. Cẩn bút, Huynh VÕ ĐĂNG ĐÀI
Thời điểm gửi Lời Cám Ơn đột xuất, do hứng khởi khiến ý định ghi vội vài dòng biến thành viết một mạch bức thư dài 4 trang (1560 chữ), “gởi đến Muội lời cám ơn rất nhiều tình yêu thương, lòng khoan dung và chung thủy của Muội”. Những ký ức sống động tuần tự tiếp diễn, viết dưới ánh sáng mờ, khởi đầu là sự kiện phong thư cầm tay tỏ tình.
Bức thư liều lĩnh tỏ tình. Vạn sự khởi đầu nan.
“Hiền Muội Muội, Huynh còn nhớ rõ ngày nào, Huynh lập lò trước cửa nhà Muội, tay cầm phong thư, chờ Muội ra để đưa. Đã bao nhiêu tuổi đầu sao Huynh còn nhút nhát như vậy. Có lẽ lúc đó Huynh không còn tin tuởng ở mình, vì thấy yêu thích Muội mà Huynh liều lĩnh vậy thôi, chứ không nghĩ rằng Muội sẽ nhận lời Huynh… một đôi khi có những con nhện rất ngô nghê vụng về vẫn được nàng (Nữ chúa nhện) sủng ái và tha chết. Huynh là một trong những con nhện vụng về đó…”
Phong thư cầm tay là bức thư tỏ tình đầu tiên, chưa biết nội dung, dài ngắn và xưng hô trong thư ra sao (huynh, muội ư?), tác giả không nói ra song chắc chắn chứa những lời lẽ rất chân thành, khiêm tốn (con nhện vụng về) mà không hề có chút lả lơi.
GS Đài lúc này, vào năm đó 1977 đã 45 tuổi, nửa đời người, đã bao nhiêu tuổi đầu! BS Vĩnh Chánh (YK Huế) cho biết thầy Đài có một đời vợ trước, là cô TNTC, cứ nhân văn khóa Sài Gòn, lấy GS Đài trước khi làm hiệu trưởng trường Đồng Khánh, Huế trong 2 năm 1964-1966. Hai người đã có với nhau 3 mặt con, đứa đầu bị tàn tật, bại liệt ‘polio’. Hai cháu sau cùng vợ con đều có mặt ngày ông mất, 8 tháng 5, 2025 tại CA, USA vừa qua.
Về phần đối tượng nhận thư thì ở trong độ tuổi 26 đến 30+, kém ông tối đa 20 tuổi. Ở tuổi này người phụ nữ đã chín chắn, thực tế trong hôn nhân, không mơ mộng, chờ đợi một hoàng tử đep trai trong giấc mơ. Họ chấp nhận tình yêu nếu là chân thành, và người chồng tương lai có đủ năng lực nuôi sống gia đinh, tuổi tác có chênh lệch cũng vừa phải thôi.
GS Đài có nhiều lá bài tốt. Ông có thế mạnh là một giáo sư tiến sĩ, lại là một dược sĩ chủ hiệu thuốc tây rất sớm, tất nhiên giàu có. Tuy ông có một đời vợ trước song ông nay là độc thân, ở tuổi chỉ mới 45. Có kẻ tuổi bảy, tám mươi vẫn lại lấy vợ. Không ai hoàn hảo, GS Đài không có bề ngoài. Không thấp lùn nhưng ông nhỏ người, khuôn mặt gầy, da dẻ kém sáng, miệng hơi nhô (người tốt bụng?). Tuy vậy nét mặt chơn chất, ăn nói dịu dàng, tế nhị, vui lòng mọi người, và có duyên ngầm.
Người tình lãng mạn.
Muội biết không? Lòng Huynh sung sướng biết bao… Tối đó, trên con đường Lê Lợi vắng vẻ [dọc bờ sông Hương], hai đứa mình đạp xe lọc cọc bên nhau mà không nói lời gì…
Nhìn qua Muội rồi nhìn lên trời, Huynh không biết đã có vì sao nào rơi lạc xuống đây, biến thành Muội và đi bên cạnh Huynh. Huynh muốn nói với vì sao đó: Nàng sao ơi, nàng đã bỏ bao nhiêu bạn bè đang ca múa trên kia mà xuống đây thì xin nàng hãy mãi mãi ở lại với ta, ta năn nỉ nàng và cầu xin nàng đó…”.
Thời phu phụ, yêu thương và bổn phận.
+ Mừng Con Đầu Lòng: “Hiền Muội Muội, Những ngày sau đó thật êm ả, Muội đã có thai và chờ ngày sinh nở… Rồi đến ngày Muội sinh nở. Huynh nhớ lúc đó khoảng 10 giờ sáng, từ bên trường đi qua bệnh viện, đàng xa đã nghe tiếng Muội la. Huynh thấy xót xa trong lòng, chắc Muội đau lắm, đáng lẽ những đau đớn đó do Huynh gánh chịu mới phải. Tự nhiên Huynh chấp tay cầu nguyện cho Muội được mẹ tròn con vuông… Và rồi chúng mình đã cùng nhau uống ly rượu mừng, mừng sinh con như mừng ngày cưới vậy”.
Dù sao đàng xa cũng không thể nghe được gì trong tòa nhà lầu khoa Sản phụ, tại phòng sinh cửa đóng kín mít. Cho hay tình cảm phu thê rất nặng, làm bấn loạn tinh thần.
+ Sống Xa Gia Đình. Năm 1980 GS Đài từ giã trường Y Huế, đem gia đình vào Sài Gòn ở cùng mẹ ruột. Năm 1983 ông vượt biên thành công và ở Mỹ ông đã gây dựng lại được sự nghiệp để bảo lãnh vợ con sang, gia đình đoàn tụ.
– Lúc còn trên đảo tị nạn: “Sau bữa ăn tối Huynh thường một mình đi dọc bờ biển để tâm hồn được thanh thản. Có những đêm trăng tròn… khi đó Huynh sẽ nhìn Muội rồi chỉ mặt trăng mà nói: Trăng sáng và đẹp quá nhưng trăng không thể sáng bằng ánh mắt hiền thê của ta được, trăng đẹp nhưng không thể đẹp bằng khuôn mặt tươi vui dịu hiền của nàng…”
– Trên đất Mỹ: “Có một bữa Huynh chiêm bao thấy nắm tay Muội cùng nhau chạy lên đồi cao, ngắm những con chim, từng đôi một, hót líu lo và nhảy từ cành này sang cành khác, nhìn những đàn bướm bay lượn… Cảm giác sao mà êm đềm quá… ”
Hình: GS Võ Đăng Đài và phu nhân.
GS Đài gặp phu nhân ở Huế. Hai người kết hôn năm 1977, lúc ông 45 tuổi, đến nay con cháu đầy nhà. Trong buổi thành hôn tại Sài Gòn, GS Bùi Duy Tâm là người khách duy nhất được mời.
Cách xưng hô ”huynh, muội” nghe khôi hài, có vẻ cải lương, đậm mùi truyện chưởng. Muội, muội muội là em gái của rmình (bào muội) hoặc phụ nữ nhỏ tuổi hơn. Biểu muội, di muội, lệnh muội là em gái họ, em gái vợ mình, em gái người khác. Xưng hô huynh muội giữa vợ chồng không phổ biến trong giao tiếp hàng ngày, gây nhầm lẫn, không lịch sự mà thường được sử dụng trong văn chương hoặc trong những tình huống rất đặc biệt mang ý nghĩa tôn sùng, tình cảm chan chứa, lòng yêu thương tràn ngập.
BS Vĩnh Chánh, YK Huế viết lời khen ngợi:
“Cách dùng chữ kêu gọi nhau “Muội Muội Huynh Huynh” vô cùng đặc biệt, hé mở cho người đọc nhìn thấy một cuộc tình đến muộn nhưng không kém lôi cuốn và lãng mạn: thơ tình trao tận tay, đạp xe trên đường vắng trong đêm khuya, không một tiếng động ngoại trừ âm thanh của tình yêu đang nhè nhẹ đến. Như chú chăn cừu trong câu chuyện Les Étoiles của Alphone D’Audet”.
Cũng có thể cô Đài là người Hoa, như trường hợp phu nhân của BSGS Đinh Văn Tùng, cựu giám đốc bệnh viện Toàn khóa Đà Nẵng. Người chồng gọi thân mật vợ là: hiền thê, ái thê, nương tử.
Tôi có dịp chuyện trò với cô Đài trong Đại hội YK Huế Hải ngoại năm 2014. Quanh bàn tròn, tôi rồi đến cô Đài, thầy Đài và các thầy cô khác. Cô là người ưa bắt chuyện, hết sức tự nhiên chuyện trò. Cô cho biết cô ăn trai (chay) trường từ nhỏ khiến tôi nể phục quá chừng. Thảo nào cô vẫn giữ nét thanh xuân đẹp đẽ ở tuổi trên 60. Mấy chục năm về trước do chiến tranh, do thời cuộc, biết bao khuê nữ đã ngâm ngùi vì mối tình đâu bị dang dở.
Trong bài viết dài “Tính sổ một đoạn đướng”, GS Đài đã viết câu kết thúc như sau:
“Thứ hai là sau 75 khi tôi để gia đình ở lại Sàigòn, một mình trở về lại Y khoa Huế. Tôi không tìm ra lý do của quyết định này… hay là một định mệnh nào đã xui khiến tôi trở về lại Huế để gặp vợ tôi bây giờ. Nếu trong cuộc đời của tôi, tôi có được một hai thành công nào đó thì việc gặp được vợ tôi đến bây giờ vẫn là một thành công mà tôi trân quý. Đây cũng là món lời cuối cùng mà tôi có được nhờ làm cho Đại học Huế”.
Tôi cũng chẳng kém GS Đài, tình yêu bền bĩ, sâu đậm xen lẫn huyền bí, tiền định? Tôi gặp em, tên VTLT chỉ một lần tại nhà lúc em còn là một cô bé 11, 12 tuổi. Tôi xúc động mạnh, sững sờ ngắm em, lòng tự hỏi ai sẽ là người rồi đây có diễm phúc làm chủ đóa hoa tuyệt sắc này?
Bẵng đi nhiều năm, lúc tôi gần ra trường thi cha mẹ tôi bỗng cho tôi biết đã dạm vợ cho tôi, là cô bé VT Lệ Thủy năm xưa, người đồng hương. Nàng đang học năm cuối trường Quốc học Huế. Hè đến chúng tôi làm đám cưới và nàng tiếp tục học Luật, tốt nghiệp Luật sư bảy năm sau.
Luật sư đoàn. Tòa thượng thẩm Huế, gồm Đà Nẵng 1973. Hàng sau: LS Nguyễn Sĩ Hải, Khoa trưởng trường ĐH Luật khoa Huế, đoàn trưởng, đứng giữa. Hàng trước: LS VTLT, bìa phải. (Một vài vị vắng mặt).
Tuy vậy mơ ước của nàng là xong trung học sẽ được đi du học, hai ông anh của nàng đang học ở Pháp. Tiếc thay nàng đã phải lấy chồng sớm.
Lúc ở Huế còn nhỏ nàng đã có lắm nhà danh gia vọng tộc ngấp nghé mai mối dạm hỏi.
Suốt đời, tôi vẫn xem lấy nàng là thành đạt to lớn nhất trong đời tôi.
Tình yêu nồng nhiệt, thâm hậu là muôn mặt, Hãy xem GS Bùi Minh Đức và phu nhân Trần Thị Duy Thái xiết bao hạnh phúc
Anh chị BS Vĩnh Chánh/Minh Châu luôn quấn quýt bên nhau Cứ nghe BS Vĩnh Chánh kể lại thì anh cũng phải kiên trì phấn đấu, trầy vi tróc vảy nhiều năm trời chứ đâu có dễ mới tạm được lọt vào mắt xanh của người trong mộng.
Thật hi hữu, hai thầy trò: GS Võ Đăng Đài và BS Vĩnh Chánh đều nhờ Cách mạng 1975 thành công, dứt loạn lạc tạo dịp gặp lại người đẹp lý tưởng và nhanh chóng làm đám cưới, nên duyên vợ chồng. (GS Đài là giáo sư đồng hướng dẫn và bảo trợ Luận án cho anh sv Vĩnh Chánh).
Bạn VĐ Đài, tôi xin tạm biệt và hẹn sớm gặp lại nơi đất Phật.
____________________
Tham khảo:
No comments:
Post a Comment