VNTB – Có hay không chia rẽ Nam Bắc (bài 2)Quang Nguyên
29.10.2025 5:40
VNThoibao
(VNTB) – Ba cuộc di cư, ba sắc thái
Lịch sử hiện đại Việt Nam ghi nhận ba cuộc di cư của người miền Bắc vào Nam. Ba cuộc di cư tuy cùng hướng nhưng lại mang ba sắc thái lịch sử hoàn toàn khác nhau. Lần đầu bị dẫn dắt bởi nghèo đói và sự cưỡng bức của chế độ thuộc địa mang sắc thái bi thương. Đến sau Hiệp định Genève, gánh theo niềm tin chính trị và tôn giáo, gần một triệu người Bắc lại lên đường, mang theo cả nỗi ly hương và chia cắt dân tộc. Sau 1975, làn sóng di cư thứ ba diễn ra khi hàng vạn cán bộ, bộ đội và gia đình miền Bắc được điều vào Nam “xây dựng đất nước”, trong khi nhiều người miền Nam bị đưa đi vùng kinh tế mới. Đây là cuộc di cư hành chính và ý thức hệ, vừa mang niềm tin, vừa chất chứa va chạm và bỡ ngỡ – sắc thái cưỡng ép và hòa nhập.
Ba cuộc di cư ấy, mỗi đợt một lý do, một cảm xúc, đã tạo nên ba gam màu khác nhau trong bức tranh lớn của lịch sử Việt Nam hiện đại — nơi thân phận con người chênh vênh giữa miếng ăn, niềm tin và quyền lực.
Hai lần đầu, sự chia rẽ giữa người Bắc và người Nam trong vùng đất trù mật Nam Kỳ đã bị xóa đi chỉ sau một thời gian ngắn. Mọi người xem nhau là anh em, chia sẻ ngọt bùi, cộng tác đồng tiến. Nhưng mỉa mai, cuộc di cư thứ 3 sau chiến thắng 1975, những người “theo bước Giải Phóng” vào Nam để “Thống Nhất” hai miền, lại khiến chia rẽ Bắc Nam xuất hiện và ngày càng rõ rệt sâu sắc hơn.
Đây là một nghịch lý lớn của lịch sử hiện đại Việt Nam. Cuộc di cư của người Bắc vào Nam gắn liền với chiến thắng 1975 “giải phóng”, “thống nhất” – lại tạo ra chia rẽ vùng miền sâu sắc và dai dẳng.
Người Bắc hai lần di cư đầu (dù là mộ phu hay dân di cư 54) đều ở thế yếu, thế “xin ở nhờ”, phải dựa vào người bản địa, nên biết ơn, khiêm tốn, nỗ lực hòa nhập, không áp đặt, không tranh giành quyền lực. Thêm nữa những anh em Nam Kỳ vốn phóng khoáng, dễ mở lòng, cảm thông, coi người Bắc như anh em, cùng chia sẻ ngọt bùi. Họ lại chung lý tưởng tự do (như người di cư Bắc 54), nên dễ hợp tác, đồng cảm.
Nhưng người Bắc vào Nam thời kỳ 1975 mang tâm lý “người chiến thắng”, “người giải phóng”, “người đi quản lý, chỉ đạo”, tự xem mình là chủ nhân mới, là ân nhân, thậm chí có phần trịch thượng.
Hai cuộc di cư đầu là biểu tượng của hòa hợp dân tộc, cùng tiến bộ, cùng làm giàu, cùng xây dựng xã hội tự do, nhân bản.
Cuộc “di cư thống nhất” – sau 1975 – lại trở thành nguồn gốc của sự chia rẽ, mất lòng tin, kéo dài thậm chí qua bao thế hệ, cả trong nước lẫn cộng đồng người Việt ở hải ngoại.
1. Cuộc mộ phu ngoài Bắc vào Nam làm phu đồn điền cao su (đầu thế kỷ 20)
Thực dân Pháp khai thác thuộc địa, và vì thiếu lao động trầm trọng ở Nam Kỳ nên tổ chức “mộ phu” từ Bắc và Trung vào Nam, đặc biệt là vào các đồn điền cao su ở Đông Nam Bộ. Lúc đầu người phụ cao su sống nghèo khổ, bị bóc lột, bị xa lánh hoặc kỳ thị bởi dân bản địa do khác biệt văn hóa, cách nói chuyện, phong tục, tuy nhiên, về lâu dài, nhiều người định cư, hòa nhập vào cộng đồng, họ dần trở thành dân Nam Kỳ hồi nào không hay.
2. Cuộc di cư vĩ đại 1954 (di cư 1954-1955)
Sau Hiệp định Genève, khoảng gần 1 triệu người từ miền Bắc di cư vào Nam mang theo nguồn nhân lực, kỹ năng, vốn liếng, góp phần phát triển kinh tế ở miền Nam. Nhiều người hoà nhập ngay các thành phố lớn. Chính phủ Ngô Đình Diệm mau chóng dành cho họ các khu vực màu mỡ để thành lập nhiều làng di cư, mở mang đất đai canh tác, đa dạng hóa sản xuất và thương mại. Những khu quanh Sài Gòn như Ông Tạ, Xóm Mới, xa hơn vài ba chục cây số như Hố Nai, Gia Kiệm, trên cao nguyên như: Phương Lâm, Đơn Dương (gần Đà Lạt) hay xuống miền Tây như Cái Sắn đều trở thành các khu kinh tế phát triển và có cuộc sống hoà thuận với dân địa phương. Lúc đầu cũng có sự nghi kỵ, khác biệt văn hóa, giữa người di cư và dân bản địa. Không bao lâu, hai cộng đồng dần hòa nhập, tạo nên bản sắc văn hóa đa dạng ở miền Nam. Đến nay không ai có thể thấy sự xa cách Bắc Nam giữa những người di cư, Bắc Kỳ di cư 54, và dân ‘Nam kỳ’
Tinh thần của cuộc di cư sau 1975, cuộc di cư thứ ba – gắn liền với chiến thắng 1975 và danh nghĩa “giải phóng”, “thống nhất” – lại tạo ra chia rẽ vùng miền sâu sắc và dai dẳng, thậm chí ngày càng rõ rệt hơn qua thời gian, cả trong nước lẫn ngoài nước. Người vào Nam thời kỳ này mang tâm lý “người chiến thắng”, “người giải phóng”, “người đi quản lý, chỉ đạo”, tự xem mình là chủ nhân mới, là ân nhân, thậm chí có phần trịch thượng. Chính quyền mới thực hiện chính sách áp đặt, cưỡng chế, phân biệt, khiến người miền Nam cảm thấy mất mát, bị xúc phạm, đối xử bất công, tự do bị tước đoạt. Sự khác biệt về văn hóa, lối sống, kinh nghiệm quản trị, quan hệ xã hội càng làm sâu sắc thêm sự xa cách, nghi kỵ. Định kiến dân miền Nam thấp kém, bị làm nô lệ cần được giải phóng được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, kéo dài mãi, nhất là khi được “khuếch đại” qua mạng xã hội, truyền thông hiện đại.
Chia rẽ Nam Bắc từ sau 1975 là một vấn đề rất nhạy cảm, kỵ huý mà chính quyền VN không dám nói đến, nhưng thực tế nó đang được xã hội quan tâm, nhất là trên các mạng xã hội hiện nay, vụ tiktoker Ông Trùm là điển hình.
Huy Đức viết trong “Bên thắng cuộc”
“Họ (người miền Nam) không chỉ mất nhà, mất của, mà còn mất luôn cả sự tự hào về bản thân, về giá trị sống từng có. Sự xuất hiện của những cán bộ ngoài Bắc, với cách giao tiếp, ăn mặc, ứng xử quê mùa, lối nói chuyện cửa quyền, đã tạo ra một cú sốc lớn về văn hóa. Nhiều người miền Nam cảm thấy nhục nhã, bị trị bởi những người mà họ vốn cho là kém cỏi, lạc hậu hơn mình.”
Hai cuộc di cư đầu là biểu tượng của hòa hợp dân tộc, cùng tiến bộ, cùng làm giàu, cùng xây dựng xã hội tự do, nhân bản.
Cuộc “di cư thống nhất(!)” – sau 1975 – lại trở thành nguồn gốc của sự chia rẽ, mất lòng tin, kéo dài thậm chí qua bao thế hệ, cả trong nước lẫn cộng đồng người Việt ở hải ngoại.
Chúng tôi sẽ đi vào chi tiết của sự chia rẽ Bắc-Nam trong bài sau.
No comments:
Post a Comment