Tuesday, January 28, 2025

Chào mừng đến với Weimar 2.0
Nguồn: Robert D. Kaplan, “Welcome to Weimar 2.0,” Foreign Policy, 17/01/2025
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
28/01/2025
NghiencuuQT










Các cường quốc toàn cầu ngày nay đang trở thành một mô phỏng kỳ lạ của nền cộng hòa yếu kém và bất ổn từng cai trị nước Đức trước Thế chiến II.

Ngày nay, Trung Quốc, Nga, và Mỹ, chưa kể đến các cường quốc tầm trung và nhỏ hơn, đều đang trở thành một mô phỏng kỳ lạ về Cộng hòa Weimar: một chế độ chính trị yếu kém và bất ổn đã cai trị nước Đức trong 15 năm từ đống tro tàn của Thế chiến I cho đến khi Adolf Hitler lên nắm quyền.

Có thể thấy rõ Hội chứng Weimar của nước Mỹ khi kẻ phá hoại thể chế Donald Trump được tái đắc cử tổng thống. Nhưng toàn bộ thế giới giờ đây cũng là một Weimar lớn, đủ kết nối để một phần có thể gây ảnh hưởng chết người lên các phần khác, nhưng không đủ kết nối để có sự thống nhất về mặt chính trị. Giống như các bộ phận khác nhau của Cộng hòa Weimar, thế giới của chúng ta đang ở trong giai đoạn chuyển đổi công nghệ và chính trị cực kỳ mong manh.

Tôi không thấy bóng dáng Hitler hay một nhà nước toàn trị toàn cầu nào trong hiện tại. Nhưng đừng vội cho rằng giai đoạn lịch sử tiếp theo sẽ mang lại sự giải thoát cho hiện tại. Chính là vì tinh thần thận trọng nên tôi mới đề cập đến Weimar.

Tôi biết rằng các phép loại suy có thể vô ích, vì không có thứ nào giống hệt thứ nào. Nhưng loại suy thường là cách duy nhất để giao tiếp và giải thích. Một mặt, phép loại suy là sự bóp méo không hoàn hảo, nhưng mặt khác, nó có thể tạo ra nhận thức mới, một cách khác để nhìn thế giới. Chỉ thông qua phép loại suy, tôi mới có thể bắt đầu mô tả chiều sâu của cuộc khủng hoảng toàn cầu của chúng ta. Chúng ta phải có khả năng xem xét rằng bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra với chúng ta. Và đó là tính hữu ích của Weimar.

Quân đội tiền tuyến trở về sau Thế chiến I qua Cổng Brandenburg ở Berlin vào ngày 12/11/1918. © Walter Gircke/Ullstein Bild qua Getty Images

Vậy Weimar thực sự là gì? Nhà sử học vĩ đại người Đức Golo Mann gọi Weimar là một “đế chế không có hoàng đế” rộng lớn và cồng kềnh. Thế chiến I – kéo dài bốn năm đằng đẵng, và ban đầu người dân Đức còn nghĩ rằng nó sẽ là một chiến thắng – đã kết thúc trong thất bại, lấy đi mạng sống của 11,75 triệu người lính Đức và gần nửa triệu thường dân Đức. Đất nước bị tàn phá, chế độ cai trị đế quốc hoàng gia đã sụp đổ, và Đức đứng bên bờ vực hỗn loạn xã hội. Trong bối cảnh đó, các chính trị gia và luật sư hàng đầu đất nước đã tụ họp tại thị trấn Thuringian của Weimar và đưa ra một thỏa thuận hiến pháp mới nhằm tránh xu hướng chuyên chế của Kaiser Wilhelm II và trước đó là Otto von Bismarck.

Nhưng dàn xếp mới này lại quá yếu để có thể chống đỡ trước áp lực của những gì sắp xảy đến. Không có người giám sát nào để giữ gìn hòa bình giữa các bộ phận cấu thành của nhà nước mới. Các tiểu bang trực thuộc liên bang (Länder) nắm quyền lập pháp thông qua Reichsrat (thượng viện của quốc hội), giữ lại mọi quyền không được chuyển giao rõ ràng cho chính quyền trung ương. Toàn dân bầu ra nguyên thủ quốc gia hay tổng thống. Sau đó, tổng thống bổ nhiệm thủ tướng, người cùng với nội các của mình điều hành chính phủ theo lệnh của Reichstag, hạ viện, cũng do người dân bầu ra. Hai phần ba nước Đức vẫn được gọi là Phổ và được quản lý theo các quy tắc khác với Länder. Và tại Bavaria – nơi cũng giống như Phổ, là một quốc gia trong một quốc gia – người ta liên tục nói về việc tách khỏi Reich, Đế chế.

Nếu tất cả những điều này nghe giống như một phiên bản phức tạp hơn của Hiến pháp Mỹ, với hệ thống tam quyền phân lập và 50 tiểu bang, thì đúng là như vậy – và nó dần trở nên khó kiểm soát hơn do tình trạng hỗn loạn kinh tế và xã hội. Lạm phát thảm khốc đã xảy ra trong những năm đầu của Weimar và suy thoái thảm khốc đến vào cuối thời kỳ này: chúng là kết quả của một nền kinh tế chật vật thời hậu chiến, bị vùi dập thêm nữa bởi các khoản bồi thường theo Hòa ước Versailles và bởi sự gián đoạn kinh tế thế giới.

Nước Đức trong thời kỳ Weimar từ năm 1918 đến năm 1933 là một thế giới rộng lớn nhưng không thống nhất, nơi các quy tắc trật tự hầu như không được áp dụng. Nó không phải là một chính phủ mà là một hệ thống các bộ phận thù địch và cạnh tranh, do những khác biệt vùng miền của một nước Đức rộng lớn, và về mặt lịch sử, là một nước Đức mới được thống nhất gần đây. “Trạng thái bình thường của Weimar là khủng hoảng,” nhà sử học quá cố Gordon A. Craig nhận xét.

Quân đội chính phủ được trang bị súng phun lửa và xe tăng diễu hành qua Berlin năm 1920. © Hulton Archive / Getty Images
Các thành viên của Reichsbanner, được thành lập để chống lại những kẻ cực đoan trong cánh tả và cánh hữu của Đức, tập trung tại Magdeburg, Đức, năm 1932. © Archiv Gerstenberg / Ullstein Bild qua Getty Images

Theo nghĩa đó, Weimar cũng giống như hành tinh của chúng ta ngày nay: được kết nối chặt chẽ đến mức có cả những cuộc khủng hoảng vượt qua đại dương, cho dù đó là COVID-19, suy thoái toàn cầu, xung đột giữa các cường quốc, chiến tranh Trung Đông, hay biến đổi khí hậu chưa từng có tiền lệ. Nhắc đến Weimar là nhấn mạnh và thừa nhận sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng của thế giới chúng ta, và chấp nhận trách nhiệm đạo đức đối với nó. Giống như các tiểu bang Đức có liên hệ mật thiết với nhau trong Weimar, tất cả các quốc gia hiện nay đều được kết nối theo cách mà một cuộc khủng hoảng đối với một quốc gia có thể là một cuộc khủng hoảng đối với tất cả mọi người. Do đó, hiện tượng Weimar trở thành một hiện tượng quy mô lớn.

Weimar là một cuộc khủng hoảng nội các kéo dài, nơi mọi thứ dường như luôn bị đe dọa. Chính quyền trung ương đã tự làm mình kiệt sức chỉ để cố gắng duy trì trật tự, và trong những năm cuối cùng của Weimar, tất cả những gì người ta nói ở Đức là chính trị hàng ngày. Đó thực sự là một cuộc khủng hoảng không hồi kết, với một loạt các vấn đề dồn dập nối tiếp nhau. Công chúng và các chính trị gia đều bị cuốn vào khoảnh khắc đó, với tất cả sự mãnh liệt của nó, không thể tập trung vào những gì có thể xảy ra tiếp theo vì họ đã bị hiện tại làm cho choáng ngợp.

Mann viết: “Bị chia rẽ và xa lánh khỏi chính mình, bị lãnh đạo bởi các chính trị gia yếu kém hoặc miễn cưỡng, đất nước đã phải đối mặt với những vấn đề mà sự bối rối vô vọng của nó sẽ làm nản lòng cả những người như Bismarck.”

Ngoại trưởng Đức Gustav Stresemann ký Hiệp ước Locarno giữa Đức, Pháp, Anh, Bỉ, và Ý vào năm 1925. © Imagno/ Getty Images

Nhưng không phải lúc nào cũng chỉ có sự u ám và bi quan. Giai đoạn giữa và cuối những năm 1920 gắn liền với Gustav Stresemann – một chính trị gia theo chủ nghĩa hiện thực tự do, người thông minh theo mọi lời kể, từng giữ chức thủ tướng và ngoại trưởng – là thời kỳ tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thỏa hiệp và hòa giải chính trị. Trong một thời gian, người ta có thể cảm nhận rõ ràng rằng mọi thứ đang trở nên tốt đẹp hơn và nước Đức cuối cùng cũng thoát khỏi tình trạng hỗn loạn hậu chiến. Ngoại giao của Stresemann về cơ bản đã xóa bỏ những hạn chế đối với chủ quyền của Đức theo Hòa ước Versailles sau thất bại của nước này trong Thế chiến I, ngoại trừ vấn đề vũ khí. Cũng có một giai đoạn lạc quan khác, dù rất ngắn ngủi, khi nhà tài chính bảo thủ Heinrich Brüning nổi lên vào đầu năm 1930 để lãnh đạo một nội các khẩn cấp quốc gia tương đối phi đảng phái.

Tuy nhiên, bản năng chính trị của Brüning lại không tương xứng với tài năng kỹ trị của ông: Ông không có khả năng thỏa hiệp và điều động vào thời điểm ông đang cố gắng áp đặt những lựa chọn kinh tế khó khăn, bao gồm cắt giảm lương và thắt chặt tín dụng, lên người dân và các đảng phái chính trị. Craig viết rằng “Giá như Brüning là một Bismarck, thì bất chấp những hoàn cảnh khó khăn …, ông đã có thể thực hiện được điều này.” Chính phủ của Brüning cứ thế chật vật cho đến ngày nó sụp đổ vào năm 1932.

Nội các kỹ trị của Brüning đã bị các thế lực cực đoan trên đường phố, gồm cả phe Quốc Xã và phe cộng sản, nuốt chửng. Có lẽ đó là cơ hội thực sự cuối cùng để Cộng hòa Weimar tự cứu lấy mình. Lịch sử vừa mang tính bi kịch kiểu Shakespeare, vừa mang tính địa chính trị, là một vấn đề của sự ngẫu nhiên, và nếu Brüning không có những hạn chế cá nhân như ông đã có, thì lịch sử của thế kỷ 20 hẳn đã rất khác.

Sự hỗn loạn càng tệ hại thì chế độ chuyên chế càng cực đoan, và điều đó đã đưa chúng ta đến chương cuối cùng của Weimar.

Ngôi nhà từ những lá bài của Weimar đã cận kề sụp đổ vào năm 1932 với thủ tướng áp chót, Franz von Papen, một nhà độc tài cánh hữu và là một kỵ sĩ nghiệp dư không nền tảng chính trị, một người mà Mann mô tả là “mê hư danh,” “vô trách nhiệm” và “hời hợt đến đáng thương.” Chính phủ của von Papen đã chẳng làm được gì và không thể tồn tại được đến cuối năm. Thật vậy, tại thời điểm đó, nội các được thay đổi liên tục nhưng không có một nhà quản lý thực sự. Tuy nhiên, ngay cả sau khi von Papen rời nhiệm sở, ông vẫn là cố vấn thân cận của Tổng thống Paul von Hindenburg.

Khi được hỏi tại sao Hindenburg, tuân theo lời khuyên của von Papen và một số người khác, đã bổ nhiệm Hitler làm thủ tướng vào ngày 30/01/1933, von Papen trả lời: “Chúng tôi [chỉ] thuê ông ta thôi.” “Chúng tôi đã gài bẫy ông ta,” một trong những người bạn của von Papen nói thêm, tin rằng Hitler có thể dễ dàng bị kiểm soát trong vai trò đó. Mann đặt câu hỏi: vậy thì ý nghĩa của sự tồn tại của con người là gì khi “một nhân vật nhẹ cân” như von Papen lại có thể “xác định hướng đi của lịch sử thế giới.” Một lần nữa, có những thế lực áp đảo của địa lý, văn hóa, và kinh tế, và cũng có những tình huống ngẫu nhiên dựa trên những nhân vật trọng yếu. Lịch sử là sự pha trộn của cả hai.

Adolf Hitler diễu hành đến Reichstag ở Berlin vào ngày 30/01/1933, ngày ông nhậm chức thủ tướng. © General Photographic Agency/ Hulton Archive/ Getty Images

Weimar đã tạo ra một khoảng trống mà cuối cùng sẽ được lấp đầy bởi chủ nghĩa toàn trị của Đức Quốc Xã. Nhưng thế giới của chúng ta ngày nay hẳn phải có một số phận khác. Giống như Weimar, thế giới ngày nay là một hệ thống các quốc gia được kết nối với nhau, trong đó không ai thực sự cai trị. Nhưng địa lý thế giới vẫn là một yếu tố tác động. Trái đất này đủ rộng để không một thế lực chính trị riêng lẻ nào có thể thực sự sao chép những gì đã xảy ra với nước Đức vào cuối thời kỳ Weimar, một nước cộng hòa lỏng lẻo chỉ nằm ở vùng trung tâm địa lý của châu Âu. Vì vậy, thay cho sự trỗi dậy của một Hitler thứ hai, chúng ta sẽ phải đối mặt với hết tình trạng khẩn cấp này đến tình trạng khẩn cấp khác, khi các cuộc khủng hoảng lan rộng trên toàn cầu.

Weimar giờ đây trở thành một điều kiện vĩnh viễn đối với chúng ta, vì toàn cầu hóa và công nghệ đã kết nối đủ để chúng ta ảnh hưởng lẫn nhau một cách mật thiết mà không đem lại khả năng quản lý toàn cầu thực sự. Dù vậy, đó không phải là kết quả tồi tệ nhất – vì, nếu Hitler không xuất hiện, Weimar cuối cùng có thể đã tự cứu lấy mình. Có khá nhiều nền dân chủ kiểu Weimar đang tồn tại ở các nước đang phát triển – như Lebanon, Nigeria và Bangladesh – và khá nhiều trong số chúng vẫn có thể thành công. Điều quan trọng là phải tận dụng nỗi sợ hãi của chúng ta về Weimar, để cảnh giác về tương lai mà không đầu hàng số phận.

Địa lý không biến mất. Nhưng nó đang thu hẹp lại. Nhờ truyền thông kỹ thuật số, công nghệ mạng, tên lửa liên lục địa, du lịch bằng máy bay phản lực, vệ tinh không gian, và rất nhiều thứ khác, các khu vực khác nhau trên thế giới hiện đang ảnh hưởng lẫn nhau một cách mật thiết như cách các khu vực khác nhau của Đức đã từng ảnh hưởng lẫn nhau vào những năm 1920 và đầu những năm 1930, với tất cả các phe phái và trung tâm quyền lực của nó.

Thế giới càng trở nên nhỏ bé hơn vì công nghệ, thì mọi nơi trong đó càng trở nên quan trọng hơn. Mỗi con sông và dãy núi đều trở thành địa điểm chiến lược. Một cuộc đảo chính ở Niger – giống như những gì đã thực sự xảy ra vào năm 2023, và làm suy yếu các hoạt động chống khủng bố trên khắp một khu vực rộng lớn của Châu Phi – có thể phơi bày sự mong manh của thế giới chúng ta nhiều như một cuộc khủng hoảng kinh tế ở Trung Quốc. Hãy thử hình dung một chiếc đồng hồ đeo tay cũ: nó rất nhỏ, nhưng khi bạn bắt đầu tháo rời nó ra, nó đột nhiên trở nên rất lớn và phức tạp. Đó chính là thế giới của chúng ta ngày nay và trong những thập kỷ tới.

Liệu Weimar toàn cầu mới này sẽ chịu chung số phận thảm khốc như Weimar cũ của Đức? Hay nó sẽ tìm thấy một mức độ ổn định như nước Đức những năm 1920 trong thời kỳ Stresemann? Bởi vì thời kỳ không có chế độ cai trị đó đã có thể tiếp tục vô thời hạn nếu không xảy ra cuộc Đại suy thoái ảnh hưởng đến toàn bộ các nước phát triển và khiến Weimar lao dốc không phanh. Bất chấp mọi rắc rối mà chúng đã gây ra, COVID-19 và biến đổi khí hậu vẫn chưa có tác động cụ thể và thảm khốc đến toàn cầu như những gì cuộc Đại suy thoái đã gây ra cho nước Đức, từ đó mở đường cho Hitler lên nắm quyền. Nhưng điều gì cũng cần có thời gian. Biến đổi khí hậu và đại dịch là không có điểm dừng – và tôi vẫn chưa nói đến chiến tranh cũng như sự rạn nứt giữa các cường quốc.

Vào đầu thế kỷ 20, nhà địa lý người Anh Halford Mackinder đã làm chấn động giới trí thức toàn cầu với học thuyết “trục” nổi tiếng của ông, trong đó tuyên bố rằng vì siêu lục địa Á-Âu sẽ sớm được kết nối bằng đường sắt, nên “trái tim,” hay vùng trung tâm rộng lớn của Á-Âu là nơi nắm giữ chìa khóa quyền lực thế giới, vì nó cách đều tất cả các điểm chiến lược theo mọi hướng. Để đi đến kết luận đó, Mackinder hiểu được rằng bằng cách mở rộng quyền kiểm soát chính trị của họ vào những vùng xa xôi nhất của châu Phi và châu Á, các cường quốc đế quốc châu Âu về cơ bản đã lập bản đồ toàn bộ trái đất. Không còn không gian để mở rộng nữa, nghĩa là năng lượng của họ không còn có thể được sử dụng vào những cuộc chinh phục rừng rậm và sa mạc xa xôi, và do đó các cường quốc sẽ ngày càng quay lưng lại với nhau.

Theo lý thuyết của Mackinder, chiến tranh sẽ có quy mô toàn cầu, vì mọi nơi đều có thể bị tranh chấp. Do đó, ông đã mơ hồ dự đoán được hai cuộc chiến tranh thế giới và Chiến tranh Lạnh nhiều thập kỷ trước khi chúng xảy ra.

“Mọi sự bùng nổ của các lực lượng xã hội,” Mackinder viết vào năm 1904, “thay vì bị tiêu tan trong một mạch không gian vô định và hỗn loạn man rợ bao quanh, [từ nay trở đi] sẽ vang vọng mạnh mẽ đến phía bên kia của địa cầu, và các lực lượng yếu kém” ở giữa “sẽ bị vỡ vụn như một hệ quả.” Việc con người cư trú gần như khắp mọi nơi trên thế giới có tính hậu quả và tính kết nối, do đó mọi nơi đều trở nên cực kỳ quan trọng. Sẽ không còn nơi nào để trốn thoát. Các cường quốc sẽ bị mắc kẹt cùng nhau trên một hành tinh hữu hạn.

Thế chiến I có thể đại diện cho lần đầu tiên mà các cường quốc châu Âu và Bắc Mỹ đều bị ràng buộc trong một hệ thống. Nhưng sự suy giảm của cùng một hiện tượng – một Trái đất ngày càng thắt chặt và thu hẹp do công nghệ – sẽ tạo nên sự thay đổi lớn. Thật vậy, Thế chiến II đã chứng kiến tất cả các lục địa lớn của vùng ôn đới – châu Âu, Bắc Mỹ, và châu Á – được tích hợp vào cùng một hệ thống xung đột hủy diệt: một hệ thống thế giới chỉ được củng cố và tăng cường xuyên suốt cuộc Chiến tranh Lạnh kéo dài gần nửa thế kỷ. Và kể từ đó đến những năm 2020, đã có một bước tiến ổn định trong việc mua sắm các thiết bị quân sự công nghệ cao khiến thế giới và các cuộc xung đột của nó ngày càng trở nên ngột ngạt. Bởi vì mọi nơi đều mang tính chiến lược, nên khả năng xảy ra xung đột cũng cao hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, chưa từng có chính phủ toàn cầu nào xuất hiện.

Trong khi đó, các cường quốc lục địa Á-Âu là Trung Quốc, Nga, Triều Tiên, và Iran đang bị cuốn vào một cuộc xung đột chống lại một loạt các lực lượng bao gồm Mỹ, các đồng minh Tây Thái Bình Dương, Ukraine, Israel, và các quốc gia Ả Rập Sunni ôn hòa. Một cuộc chạy đua vũ trang cấp cao đang diễn ra ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương với trọng tâm là Đài Loan và Biển Đông. Một cuộc xung đột quân sự bùng phát ở những điểm này giữa nền kinh tế lớn nhất và thứ hai thế giới có thể là một sự kiện tuyệt chủng đối với thị trường tài chính thế giới, cũng như đối với chuỗi cung ứng.

Sự thật là tất cả chúng ta đều đang bị mắc kẹt với nhau. Chủ nghĩa biệt lập, một khái niệm nảy sinh từ cái thời còn phải mất một tuần để đến châu Âu trên tàu hơi nước, không phải là một lựa chọn; chủ nghĩa can thiệp bằng vũ lực cũng vậy, vì nó là lựa chọn không bền vững khi xét đến làn sóng khủng hoảng đang gia tăng và khả năng bị sa lầy định kỳ. Giống như ở Weimar, nhu cầu về một ban lãnh đạo toàn cầu khôn ngoan và có khả năng quyết định nhanh chóng, hiệu quả đang ngày càng trở nên cấp bách, nhưng cũng ngày càng trở nên xa vời. Một cuộc khủng hoảng quốc tế căng thẳng sẽ đòi hỏi sự hợp tác nhiều hơn giữa các quốc gia, ngay cả khi toàn cầu hóa – vốn là một phương tiện nông cạn so với các lợi ích lãnh thổ trần trụi của chính các quốc gia này – vẫn chưa đủ tiên tiến để duy trì nó. Nửa đầu thế kỷ 21 có thể đáng sợ và bộc lộ nhiều điều như nửa đầu thế kỷ 20.

Robert D. Kaplan hiện là Giám đốc về Địa chính trị tại Viện Nghiên cứu Chính sách Đối ngoại. Cuốn sách mới nhất của ông là “Waste Land: A World in Permanent Crisis.”

No comments:

Post a Comment