Monday, August 7, 2023

Chúng khẩu đồng từ (Kỳ 1)
Trần Văn Chánh
7-8-2023
Tiengdan

Tham nhũng tăng dần ở Việt Nam đã trở thành một quốc nạn ai ai cũng thấy rõ và cùng thừa nhận, nếu không ngăn chặn lại được thì quốc gia, dân tộc không chỉ không thể cất đầu lên được, mà sẽ ngày càng suy bại. Quốc nạn này kéo theo hàng trăm hậu quả tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến toàn bộ quá trình phát triển của đất nước trên đủ bốn mặt chính trị-kinh tế-văn hóa-xã hội.

Giai đoạn chống tham nhũng tỏ vẻ rất quyết liệt hơn cả của nhà cầm quyền Việt Nam có thể nói đã khởi động từ năm 2016, mà người ta quen gọi “đốt lò”, đến nay thắm thoát đã gần 7 năm. Việc “đốt lò” này đáp ứng đúng nguyện vọng tha thiết của toàn dân nên lẽ tất nhiên đã được đại đa số quần chúng hoan nghênh ủng hộ.

Tuy nhiên, bằng cách quan sát thực tế và suy luận theo một logic hoàn toàn chắc nịch, nếu việc “đốt lò” nêu trên có đạt được ít nhiều hiệu quả tích cực phòng và chống như nó mong muốn, thì chắc chắn đã không để xảy ra hai vụ đại án/ đại ác Việt Á và “Chuyến bay giải cứu”. Qua hai đạn án này có thể thấy, sự âm mưu câu kết một cách tán tận lương tâm nhất và ghê rợn nhất trong lịch sử nước Việt, với số lượng người tham gia nhiều nhất, liên quan đến số tiền tham nhũng cũng lớn nhất (tính đến nhiều ngàn tỉ), của hàng trăm, hàng ngàn nhân vật cán bộ lãnh đạo các cấp lớn nhỏ thuộc nhiều ngành quản lý khác nhau trong bộ máy nhà nước, một bộ máy vốn dĩ đã thối rữa ngày càng gia tăng từ rất lâu năm rồi.

Rõ ràng, chống tham nhũng bằng biện pháp “đốt lò” (thanh kiểm tra thần tốc trên diện rộng, phát hiện vụ án, điều tra xét hỏi, khởi tố bắt tạm giam, đưa ra tòa xét xử, cầm tù) đã thực hành mấy năm nay, nếu không gọi hoàn toàn phá sản thì cũng coi như cơ bản thất bại, phải gấp rút điều chỉnh theo một con đường khác hẳn. Điều này từ trong ra đến ngoài nước ai ai cũng hiểu, như một sự thật hiển nhiên bất tất tranh luận, duy dường như chỉ còn sót vài ba người nào đó trong hàng ngũ lãnh đạo cấp chóp bu là chưa tỉnh ngộ, một cách vô tình hoặc cố ý.

Cũng có thể nhóm thiểu số này đã hiểu ra vấn đề rồi nhưng không ngưng lại được: Vì trót đã phóng lao/ leo lưng cọp (lui lại hoặc bước xuống rất nguy hiểm…); vì tự ái nghề nghiệp tầm thường của người đã quen đóng vai trò lãnh đạo cấp cao lâu năm; hoặc vì những lý do rất phức tạp khác, như mất kiểm soát để cho công cuộc đấu tranh chống tham nhũng xuất lộ khả năng bị lạm dụng theo hướng xấu, liên quan đến cuộc đấu đá tranh giành quyền lực-quyền lợi đã và đang diễn ra ngày càng ác liệt trong nội bộ của tổ chức chính trị hiện hữu (bằng cớ là, chính một nhà lãnh đạo thuộc cấp cao nhất cũng thỉnh thoảng có công khai nhắc nhở các cấp dưới của mình về điều tệ hại này).

Nếu nghĩ theo hướng tốt cho những người chủ trương “đốt lò”, ta thấy, có thể họ thật sự giàu thiện chí theo trình độ nhận thức và kinh nghiệm cá nhân có thể còn rất hạn chế của họ, biết khó nhưng vẫn tiến hành, với ý chí kiên cường không chịu bó tay, tỏ ra quyết liệt với một vài mặt đáng khen, đạt được một số thành tích nhất định, như trong vài năm đã khống chế được hàng chục ngàn nhân vật quan tham các cỡ, lên đến cấp bộ trưởng, tạo được tác dụng răn đe khá mạnh. Nếu nghĩ theo hướng xấu, có người lại cho rằng, “đốt lò” chẳng qua chỉ là hành động chính trị cần thiết để tô điểm hình ảnh cá nhân và thanh trừng phe phái.

Loại trừ các hướng nghĩ cực đoan (quá khen hoặc quá chê), trong khi chưa thể kết luận chắc chắn theo hướng nào (tốt hoặc xấu) thì điều đáng tiếc khách quan đã diễn ra và phải nhìn nhận là bên cạnh mặt tốt còn có những hiệu ứng ngược thật sự nguy hiểm. Đó là tình trạng gây mất đoàn kết, nghi kỵ lẫn nhau; hầu hết các quan chức phụ trách trở nên thụ động, rụt rè, gà phải cáo, đã co vòi lại trong việc họ không còn mạnh dạn đưa ra quyết định, không dám hạ bút ký tên cho các dự án xây dựng đúng đắn, các cuộc đấu thầu mua sắm thiết bị cần thiết (đặc biệt trong lĩnh vực y tế chữa bệnh)… vì không có quyền lợi đi kèm chữ ký, không dám phết phẩy ăn bạo như trước, hoặc sợ liên quan trách nhiệm có khả năng sẽ bị điều tra xét xử lúc nào không hay. Tình trạng này, như đang diễn ra, đã làm cho bộ máy hành chính bị tê liệt một phần quan trọng, hoạt động kinh tế-tài chính sa sút, doanh nghiệp phá sản hàng loạt, dẫn đến trầm trọng hóa nạn thất nghiệp, đói nghèo, kéo theo biết bao những hệ lụy tệ nạn xã hội khác, vô phương cứu chữa…

Có thể ví việc chống tham nhũng giống như chữa một căn bệnh nặng trầm kha, người thầy thuốc dù Đông hay Tây y đều phải tinh thông nghiệp vụ, hiểu rõ tương tác thuốc cùng các hiệu ứng phụ, trên cơ sở cân bằng hoạt động giữa các cơ quan trong ngũ tạng lục phủ, nếu không, cái gọi là hiệu ứng phụ rất thường khi sẽ trở thành nguyên nhân chính, trực tiếp làm cho con bệnh tử vong.

Khi xem xét một sự vật hay hiện tượng, luôn phải nhìn thấy cả hai mặt trong mối quan hệ biện chứng âm-dương của chúng. Như việc “đốt lò”, có mặt tốt mặt xấu; bản thân những người chủ trương nó cũng vậy: Nếu kế hoạch thực hiện bị phá sản, đó là do nhận thức của họ còn có quá nhiều mặt hạn chế, chủ yếu do mù quáng, tin theo chủ nghĩa Mác-Lênin một cách giáo điều mà ra, lại tối ngày lo hội họp, không có thì giờ suy xét học hỏi, mà trở nên tối mắt lú lẫn, chứ bảo rằng họ cố tình muốn hại dân, hại nước, hại anh em đồng chí, thì không phải.

Còn đối với đa số quần chúng bên ngoài (bao gồm cán bộ công nhân viên chức cấp nhỏ), bận bịu công ăn việc làm, với nhãn quan chính trị hời hợt đầy hạn chế, nghe nói chống tham nhũng, liên tục đưa quan tham vào tù nhiều, thì ham, họ chỉ một mặt vỗ tay hoan hô mà không chịu phân tích đi vào chiều sâu vấn đề, tìm ra căn nguyên của quốc nạn tham nhũng, khiến cho người chủ trương “đốt lò” càng thêm hứng chí, tưởng mình đang làm đúng và cứ thế quạt thêm cho lửa cháy mạnh, tiếp tục đốt cả “củi khô lẫn củi tươi”, theo phương châm nhắc đi nhắc lại “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”…

Chúng ta cũng không được quên rằng, nạn tham nhũng tràn lan ở Việt Nam là có nguồn gốc khách quan của nó, và đã diễn ra như một tất yếu lịch sử: Mbộ phận dân tộc từng bị ép trong cảnh đói nghèo, nhân danh chống đế quốc, lại phải trải qua cuộc chiến tranh hy sinh xương máu trong suốt 20 năm (1954-1975) chưa từng được sống bình yên hưởng thụ, nay hòa bình lập lại, đất nước thống nhất, thì người ta phải tìm mọi cách bung ra các kiểu để đạt được điều kiện thụ hưởng vật chất, sinh ra làm bậy, tạo nên một thứ CNXH dị dạng hay CNTB cuồng nhiệt, là điều gần như tự nhiên rất khó tránh khỏi. Tương tự, chẳng hạn, khi tín ngưỡng một nơi bị tiêu diệt lâu ngày, nếu được mở ra lại, tất yếu sẽ trở thành những biến tướng dị đoan vô cùng quái đản!

Chống tham nhũng để bảo vệ quyền lợi của đa số nhân dân lao động, vì vậy, bắt buộc phải làm một cách quyết liệt, nhưng cũng cần hiểu được lý do sâu xa của sự vật, và tính nhân văn chính là thể hiện ở điểm tư duy sâu sắc này, từ đó tìm ra hệ giải pháp thích hợp, chứ không phải cho phép kẻ tham nhũng tiền tỉ được nộp tiền khắc phục hậu quả để thoát tội…

Cũng trong quan điểm luôn xem xét sự vật hay hiện tượng một cách khách quan đa chiều theo luật biện chứng, tôi cho rằng trong hai vụ đại án lịch sử Việt Á và “Chuyến bay giải cứu”, bên cạnh mặt tán tận lương tâm, vô nhân đạo của các phần tử chức quyền tham gia (mà phần lớn đáng tội phải xử tử, theo công lý và theo điều khoản pháp luật), vẫn còn có một mặt tích cực của chúng, cho đại cuộc, đó là đã góp phần hữu hiệu làm cho mọi con dân trong nước, cũng như cả thế giới càng thấy rõ hơn nữa/ không còn nghi ngờ gì nữa về tính chất hạn chế bất khả tranh luận của bộ máy độc tài toàn trị hiện hữu. Và đây mới chính là căn nguyên gốc rễ, nguyên nhân của mọi nguyên nhân, gây nên quốc nạn tham nhũng trầm trọng nhất trong lịch sử dân tộc.

Vì vậy, bắt buộc bộ máy này, nếu muốn tồn tại một cách chính danh, được nhân dân vui vẻ ủng hộ lâu dài, phải gấp rút điều chỉnh, không do dự, từ những nguyên lý tổ chức căn bản nhất đối với bộ máy cai trị theo hướng dân chủ hóa toàn bộ đời sống xã hội, trong đó có các nhánh quyền lực và các tổ chức dân sự hợp pháp có thể chế ước, kiểm soát lẫn nhau, như các nước văn minh đã thực hành từ lâu.

Trở lại công cuộc “đốt lò”, bên cạnh tác dụng tốt, loại trừ một số phần tử tham nhũng (được dân chúng hoan nghênh), thì tác dụng phụ “đấu đá quyền lực/ thanh trừng phe phái” đương nhiên của nó, thể hiện qua việc tố cáo lẫn nhau trên các mạng xã hội (có vài trang mạng chuyên làm việc này) cũng giúp cho dân chúng trông thấy rõ hơn bộ mặt thật, tha hóa, xấu xa cùng cực của tầng lớp lãnh đạo hiện nay, mà nền tảng gây nên cũng không gì khác hơn là thể chế độc tài toàn trị mất kiểm soát, hoặc kiểm soát theo lối độc tài phi nhân tính.

Tiền đề cần thiết của mọi cuộc vận động cải cách trong lịch sử bao giờ cũng là sự nhận thức đầy đủ thực tại chính trị-xã hội của đại đa số người dân trong nước. Bây giờ thì ai ai cũng đã nhận ra “Sờ tới đâu cũng có tham nhũng”, nó phát triển thành “một bầy sâu”, “ăn không chừa một thứ gì” … như một thực tại hiển nhiên không thể chối cãi. Và khi một hiện tượng diễn ra phổ biến rộng khắp, thì nó không còn là “hiện tượng” nhất thời nữa, mà đã trở thành bản chất.

Cho nên, có thể nói, quốc nạn tham nhũng bị đẩy tới trạng thái cực đoan như hiện nay (biểu hiện cụ thể sinh động qua hai vụ đại án nổi tiếng nêu trên), kèm theo việc “đốt lò” đang trên đường lúng túng, phá sản, cũng chính là cặp tiền đề quan trọng có tác dụng chuẩn bị và thúc đẩy mạnh mẽ từ bên trong, quyết tâm cải cách thể chế chính trị và luật pháp trong một tương lai không xa, bởi không thể tránh né hoặc tìm cách đi lòng vòng bằng bất kỳ con đường nào khác.

Vật cùng tắc biến, vật cực tắc phản (sự vật đi đến chỗ cùng cực thì phải biến đổi, phải quay trở lại), đó là một quy luật nhân sinh và vũ trụ, hầu như không bao giờ sai, trừ khi người ta cố ép sự vật một cách tạm thời bằng những biện pháp trái với quy luật tự nhiên.

(Còn tiếp)

No comments:

Post a Comment