“Ngọn nguồn hợp tác quân sự Việt – Mỹ: Bài 2 – TS Cù Huy Hà Vũ trả lời phỏng vấn Đài tiếng nói Hoa Kỳ ngày 9/4/2010
Cù Huy Hà Vũ
29-6-2023
Tiengdan
DẪN NHẬP: Như đã nói trong bài 1 về ngọn nguồn hợp tác quân sự Việt – Mỹ (Tiếng Dân ngày 27/6/2023), tôi, Cù Huy Hà Vũ, đã gửi Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Chủ tịch nước, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam một thư dài 5 trang đề ngày 27/12/2007 để nhờ ông chuyển tới Chính phủ Việt Nam, đề xuất của tôi về lập liên minh quân sự Việt – Mỹ để chống xâm lược từ Trung Quốc một cách bền vững. Thế nhưng tôi đã không nhận được bất cứ hồi âm nào từ Chính phủ Việt Nam trong khi Trung Quốc ngày càng hung hăng trên biển Đông.
Ngày 7/5/2009, Trung Quốc gửi Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc một Công hàm kèm theo một bản đồ thể hiện “đường lưỡi bò 9 đoạn” khẳng định chủ quyền của nước này đối với 80% diện tích biển Đông, xâm phạm trắng trợn quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Brunei và Philippines đối với vùng biển này. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc chính thức công bố “đường lưỡi bò” với toàn thế giới.
Tiếp đó, Hải quân Trung Quốc đã rầm rộ tiến hành một loạt cuộc tập trận đồng thời nâng biển Đông lên hàng “lợi ích cốt lõi” của nước này. Đặc biệt là cuộc tập trận vào đầu tháng 4 khi lần đầu tiên hai hạm đội Bắc Hải và Đông Hải đã được điều động xuống khu vực phía Nam, nơi từ trước đến nay là địa bàn hoạt động của riêng hạm đội Nam Hải. Điều đó có nghĩa là Hải quân Trung Quốc đã tính đến tiến hành một cuộc chiến tranh quy mô lớn ở biển Đông mà hạm đội Nam Hải mình nó sẽ không đủ sức đảm đương. Bản thân hạm đội này đang được hiện đại hóa với việc lần đầu tiên một tàu ngầm hạt nhân loại Jin và nhiều tàu đổ bộ được triển khai đến căn cứ của hạm đội ở đảo Hải Nam.
Trước đó, vào tháng 3/2020, các quan chức Trung Quốc đã cảnh báo Mỹ đừng xía vào “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc là biển Đông. Cùng thời điểm, vào đầu tháng 4/2010, như một sự tung hỏa mù về ý đồ chiến tranh của Trung Quốc ở biển Đông, Tiến sĩ Ralf Emmers thuộc Khoa Quan hệ Quốc tế Đại học Công nghệ Nanyang ở Singapore đã có một cuộc trả lời Đài Tiếng nói Hoa Kỳ -VOA. Theo vị này, sự gia tăng nhanh chóng sức mạnh hải quân của Trung Quốc chỉ là kết quả của việc Trung Quốc đang trỗi dậy như một cường quốc thế giới, cốt bảo đảm an toàn cho các tuyến hàng hải của nước này.
Trước tình thế khẩn trương đó, tôi buộc phải công khai đề xuất lập liên minh quân sự Việt – Mỹ để ít ra có thể kéo Mỹ trở lại biển Đông nói riêng, Đông Á nói chung về quân sự nhằm hãm đà bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc trong khu vực. Nhằm mục đích này, tôi đã thực hiện một cuộc trả lời phỏng vấn với Đài Tiếng nói Hoa Kỳ – VOA (phóng viên Huy Phương), cuộc trả lời phỏng vấn đã được đài đăng ngày 9/4/2010 với tựa đề “TS Cù Huy Hà Vũ: Tham vọng của TQ trong cuộc tranh chấp biển Đông quá rõ ràng.”
***
TS Cù Huy Hà Vũ: Tham vọng của TQ trong cuộc tranh chấp biển Đông quá rõ ràng
Tuần trước, Tiến sĩ Ralf Emmers thuộc Khoa Quan hệ Quốc tế Đại học Công nghệ Nanyang ở Singapore đưa ra với VOA một số ý kiến về cuộc tranh chấp biển Đông. Tuần này, Tiến sĩ Luật khoa Cù Huy Hà Vũ ở Hà Nội có một số nhận xét về ý kiến của Tiến sĩ Emmers và đưa ra các ý kiến riêng của ông liên quan đến cuộc tranh chấp này.
VOA: Thưa Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, ông nghĩ thế nào về nhận định “Biển Đông khó trở thành một điểm xung đột lớn ở Đông Á” của Tiến sĩ Emmers?
TS Cù Huy Hà Vũ: Nhận định này của Tiến sĩ Emmers hoàn toàn sai lầm bởi ông xuất phát từ những nhầm lẫn phải nói là rất nghiêm trọng.
Thứ nhất, ông ấy coi Trung Quốc cũng là một quốc gia Đông Nam Á khi nói về phản ứng của các nước Đông Nam Á “khác” trước sự gia tăng sức mạnh của hải quân Trung Quốc để từ đó cho rằng yêu sách của Trung Quốc đối với biển Đông hay vùng biển Đông Nam Á là có thể hiểu được.
Thứ hai, ông ấy cho rằng chỉ từ khi Trung Quốc chiếm bãi đá Vành Khăn (Mischief Reef) của Philippines bằng vũ lực vào năm 1995 thì Trung Quốc mới thực sự gây lo ngại cho các nước ven biển Đông trong khi hải quân Trung Quốc đã chiếm quần đảo Hoàng Sa do Việt Nam Cộng hòa quản lý vào ngày 19/1/1974 và đến tháng 3/1988 lại tiếp tục tiến đánh quần đảo Trường Sa và kết cục đã chiếm được một đảo nhỏ.
Thứ ba, ông ấy cho rằng sự gia tăng nhanh chóng sức mạnh hải quân của Trung Quốc không trực tiếp liên quan tới tranh chấp biển Đông mà là kết quả từ việc Trung Quốc đang trỗi dậy, trở thành một cường quốc trên thế giới, chủ yếu nhằm bảo đảm sự an toàn các tuyến hàng hải của nước này vận chuyển khoáng sản tự nhiên từ Trung Đông và châu Phi về. Nhận định này bản thân nó đã mâu thuẫn với việc Tiến sĩ Emmers thừa nhận Trung Quốc đánh chiếm bãi đá Vành khăn của Philippines, đó chưa kể trên thực tế hải quân Trung Quốc tập trung sắm tàu ngầm, tàu đổ bộ, thậm chí có kế hoạch đóng tàu sân bay – những phương tiện chiến tranh mang tính chất tiến công hơn là phòng thủ.
Tôi không cho rằng Tiến sĩ Emmers yếu kém đến mức mắc phải những nhầm lẫn rất không đáng có kể trên. Nghĩa là tôi ngờ Tiến sĩ Emmers đang phục vụ lợi ích của Trung Quốc với vai trò đánh lạc hướng hay ru ngủ sự cảnh giác của các nước ven biển Đông, Việt Nam trước hết, đối với tham vọng thật sự của cường quốc phương Bắc này.
Thực ra tôi cho rằng tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc về phương Nam không chỉ dừng lại đó bởi sự bành trướng trên biển Đông suy cho cùng cũng chỉ là bàn đạp để nước này bành trướng trên đất liền. Thực vậy, một khi Trung Quốc đã kiểm soát hoàn toàn biển Đông thì việc đặt các nước ven biển dưới sự đô hộ của họ, trực tiếp hoặc gián tiếp, chỉ còn là vấn đề thời gian.
Điều đáng lưu ý là nếu không có Hoàng Sa và Trường Sa thì sẽ không có cái “lưỡi bò”. Vì vậy Trung Quốc phải chiếm hữu hai quần đảo này của Việt Nam bằng mọi giá và chuyện đó đã xảy ra khi hải quân Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa vào tháng 1/1974 và một phần Trường Sa do vào tháng 3/1988 như trên đã nói tới.
TS Cù Huy Hà Vũ: Rất có thể Trung Quốc nghĩ rằng Đảng cộng sản Việt Nam hiện phụ thuộc vào họ hơn bao giờ hết, không chỉ do Trung Quốc có người của họ trong cấp lãnh đạo cao nhất của đảng, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đứng vào hàng đầu xếp hạng tham nhũng ở châu Á, mà còn vì Đảng cộng sản Việt Nam không còn sự bảo trợ về ý thức hệ nào khác ngoài Trung Quốc sau khi Liên Xô và khối cộng sản Đông Âu sụp đổ cách đây hai chục năm, mà sự bảo trợ này là tuyệt đối cần thiết để tiếp tục duy trì vị trí cầm quyền ở Việt Nam.
Nói cách khác, Trung Quốc chỉ có thể đánh chiếm Trường Sa mà không sợ Việt Nam chống trả quyết liệt chừng nào Việt Nam còn do Đảng cộng sản lãnh đạo. Thế nhưng rất có thể Trung Quốc cho rằng tình hình này sẽ không kéo dài vì nạn tham nhũng, quyền lợi của nông dân và ngay cả của công nhân bị hy sinh cho lợi ích của các công ty “sân sau” của giới cầm quyền đã ở mức “báo động đỏ”, thêm nữa người dân ngày càng ít ngoan ngoãn vâng lời đảng bởi Internet đã đưa lại cho họ những sự thật phũ phàng của chế độ chính trị hiện hành…
Ngoài ra, không kể tại thời điểm hiện nay lực lượng phòng thủ biển của Việt Nam là vô cùng yếu kém mà bằng chứng là Quốc hội Việt Nam, một cách vô cùng hài hước buộc ngư dân phải tự bảo vệ mạng sống của họ khi ra khơi, cũng như thay hải quân bảo vệ chủ quyền biển quốc gia. Trong nhiều năm tới Việt Nam dù cố gắng đến đâu cũng khó có thể sở hữu được những phương tiện chiến tranh khả dĩ đánh bại sức mạnh của hải quân Trung Quốc.
Tuy nhiên tôi cho rằng quan điểm trên của Bộ Ngoài giao Việt Nam là sai lầm chết người vì cha ông ta có câu: “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền” hay cái “lý” luôn thuộc về kẻ mạnh. Thực vậy, giải quyết tranh chấp lãnh thổ bằng đàm phán hoặc bằng toà án quốc tế chỉ có thể diễn ra khi sức mạnh quân sự của hai bên đối địch ở thế cân bằng hoặc xấp xỉ để không bên nào có thể dám chắc sống sót sau cuộc chiến nếu nổ ra, trong khi tương quan lực lượng vũ trang hiện nghiêng hẳn về phía Trung Quốc. Để lấy lại thế cân bằng với nước lớn phương Bắc này, Việt Nam không còn cách nào khác là phải gấp rút hiện đại hoá quân đội nói chung, các lực lượng phòng vệ biển nói riêng như các hợp đồng mua tàu ngầm và máy bay trị giá nhiều tỷ đôla mà Thủ tướng và Bộ Quốc Phòng Việt Nam đã ký kết với Nga và Pháp thời gian qua cho thấy. Tuy nhiên nhìn về toàn cục thì giải pháp này hoàn toàn không đủ để giúp Việt Nam giành thắng lợi trong hải chiến với Trung Quốc để bảo vệ toàn vẹn Trường Sa.
VOA: Xin ông cho biết lý do vì sao?
TS Cù Huy Hà Vũ: Cơ bản có hai lý do sau đây:
Thứ nhất, dù có tăng tốc mua sắm phương tiện chiến tranh đến mấy thì hải quân Việt Nam cũng không bao giờ có thể bắt kịp hải quân Trung Quốc mà tốc độ hiện đại hoá luôn được duy trì ở mức chóng mặt.
Thứ hai, chi quá nhiều tiền vào quốc phòng ắt đẩy Việt Nam vào khủng hoảng kinh tế sâu sắc, biến những mâu thuẫn và bất ổn xã hội vốn đã trầm trọng thành những xung đột phá vỡ Nhà nước và xã hội. Tất nhiên trong bối cảnh đó không chỉ Trường Sa mà ngay cả đất liền của Việt Nam tất cả sẽ là mồi ngon cho một cuộc xâm lăng từ phía Trung Quốc.
Rồi các tên lửa SAM của Nga đã giúp Hà Nội biến cuộc tập kích chiến lược bằng B-52 của Mỹ kéo dài 12 ngày đêm tháng 12 năm 1972 thành dấu chấm hết cho sự can thiệp của Mỹ tại Việt Nam mà việc các lực lượng cộng sản tiến vào Sài Gòn ngày 30 tháng 4 năm 1975 là hệ quả tất yếu.
Pháp chăng? Cũng không nốt, không hẳn vì Pháp đã chính thức “giã từ vũ khí” với xứ cựu Đông Dương từ năm 1954 mà chính vì nước này chưa bao giờ lấy đối đầu với Trung Hoa Cộng sản làm chính sách.
Tất nhiên sẽ có người nói “Đi với Mỹ thì mất Đảng” thì tôi xin thưa rằng nếu Đảng cộng sản Việt Nam thực sự đặt Tổ quốc Việt Nam lên trên hết như Đảng vẫn nói, chắc chắn Đảng sẽ không tiếc mạng sống của mình để Tổ Quốc quyết sinh! Là nói vậy chứ tôi không thấy có lý do gì đi với Mỹ lại mất Đảng cả, bằng chứng là Đảng cộng sản Mỹ hiện vẫn sống khỏe.
_____
Tác giả: Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ là một luật gia, học giả và nhà bất đồng chính kiến, cựu tù nhân chính trị Việt Nam, nguyên là cán bộ Bộ Ngoại giao Việt Nam trong 30 năm. Hiện ông sống tại California, Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment