VNTB – Tại sao Lâm hiểu ý này mà hơi “bí” ý kia?TS Phạm Đình Bá
24.04.2025 4:08
VNThoibao

Ông Lâm cho rằng những vấn đề cốt lõi trong quá trình thay đổi hiện nay là “xác lập mô hình tăng trưởng mới”, “xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, ngang tầm khu vực và thế giới”, “đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”; và phát triển kinh tế tư nhân là “một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia”.
Ông Lâm đã nhấn mạnh quan điểm “lấy con người làm nền tảng cho sự phát triển bền vững, vì con người vừa là mục đích cuối cùng, vừa là động lực chính thúc đẩy sự phát triển xã hội”. Ông cũng khẳng định rằng “tăng trưởng kinh tế phải hướng tới mục tiêu thỏa mãn nhu cầu tinh thần và vật chất ngày càng cao hơn của nhân dân”. Mô hình phát triển con người “toàn diện” do ông Lâm đề xuất tập trung vào ba trụ cột chính: giáo dục trí tuệ, nâng cao thể chất, và xây dựng hệ giá trị văn hóa truyền thống.
Tuy nhiên, mô hình này không đề cập đến các quyền tự do tư tưởng, tự do phát biểu, tự do phản biện, hay tự trị đại học – những yếu tố được coi là nền tảng của phát triển con người. Sự vắng mặt này làm dấy lên câu hỏi về tính toàn diện thực sự của mô hình, đồng thời phản ánh nghịch lý giữa tầm nhìn phát triển và hạn chế trong tiếp cận quyền con người.
Theo ông Lâm, phát triển con người phải “gắn liền với xây dựng hệ giá trị quốc gia, văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam”. Ông nhấn mạnh việc đào tạo thanh niên thành lực lượng “có bản lĩnh, trí tuệ, sức khỏe” để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế. Cụ thể, chiến lược giáo dục tập trung vào STEM (Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Toán học) và đổi mới sáng tạo, với mục tiêu tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành công nghệ 4.0.
Về thể chất, ông Lâm kêu gọi phát triển thể thao học đường để “nâng cao tầm vóc người Việt”, đồng thời xây dựng lối sống lành mạnh thông qua các chương trình y tế cộng đồng. Điều này phù hợp với chỉ đạo của ông về việc kết hợp giữa “trí tuệ thông minh và thể chất khỏe mạnh” làm nền tảng cho sự phát triển bền vững.
Mặc dù đề cao giáo dục, mô hình này không thừa nhận quyền tự do học thuật – nguyên tắc cho phép giảng viên và nhà nghiên cứu theo đuổi chân lý khoa học độc lập với áp lực chính trị. Điều 55 Luật Giáo dục Đại học 2018 quy định giảng viên chỉ được “độc lập về quan điểm chuyên môn” trong khuôn khổ “phù hợp với lợi ích Nhà nước”. Hệ quả là Việt Nam xếp hạng 0,32/1 về tự do học thuật, thuộc nhóm thấp nhất thế giới, theo báo cáo của Đại học Friedrich-Alexander (Đức) và Viện V-Dem (Thụy Điển).
Trên thực tế, các trường đại học Việt Nam vận hành theo nguyên tắc “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý”, với Hiệu trưởng thường là đảng viên kỳ cựu. Việc giảng dạy các môn khoa học xã hội như Triết học, Xã hội học phải tuân thủ “định hướng xã hội chủ nghĩa”, hạn chế tranh luận về mô hình chính trị đa nguyên hay nhân quyền.
Chiến lược giáo dục của ông Lâm đặt trọng tâm vào việc “bồi dưỡng lý tưởng cách mạng” và “giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc”. Các chương trình đào tạo được thiết kế để đảm bảo sinh viên “trung thành với Đảng, Nhà nước và chế độ”, thông qua việc tích hợp nội dung lịch sử Đảng vào hầu hết môn học. Mô hình này tạo ra nghịch lý: trong khi khuyến khích sáng tạo công nghệ, nó lại hạn chế tư duy phản biện về các vấn đề xã hội và chính trị.
Giáo sư Doyle Srader (Đại học Bushnell, Mỹ) nhận định: “Nếu tự do học thuật bị giới hạn bởi lợi ích nhà nước, xã hội sẽ mất đi động lực phát triển tri thức dài hạn”. Điều này thể hiện rõ ở việc Việt Nam tụt hậu trong nghiên cứu khoa học xã hội – lĩnh vực đòi hỏi tư duy độc lập. Theo SCImago Journal Rank, số công bố quốc tế về Nhân văn và Khoa học Xã hội của Việt Nam chỉ bằng 1/10 so với Singapore.
Khái niệm “toàn diện” trong mô hình của ông Lâm tập trung vào năng lực phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, nhưng bỏ qua các quyền tự do cá nhân. Điều này trái ngược với quan điểm của Liên Hợp Quốc, coi phát triển con người phải bao gồm: tự do chính trị, tự do kinh tế, cơ hội xã hội, và bảo đảm minh bạch.
Việc thiếu cơ chế bảo vệ quyền phản biện khiến mô hình này mang tính áp đặt. Ví dụ, sinh viên không được thảo luận về các vấn đề nhạy cảm như cải cách thể chế hay tham nhũng hệ thống. Trong khi đó, ông Lâm lại kêu gọi thanh niên “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” – mâu thuẫn với thực tế kiểm duyệt thông tin và trừng phạt tư tưởng khác biệt.
Thống kê của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) cho thấy, Việt Nam chỉ đứng thứ 59/132 về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2024. Nguyên nhân chính được chỉ ra là thiếu môi trường tự do tư tưởng để ươm mầm ý tưởng đột phá. Các doanh nghiệp công nghệ như FPT hay VNG thành công nhờ tập trung vào thị trường nước ngoài, nhưng gặp khó khăn khi triển khai giải pháp sáng tạo trong nước do rào cản hành chính và định kiến.
Mặc dù Chính phủ đầu tư mạnh vào cơ sở vật chất, các đại học Việt Nam vẫn vắng bóng trong bảng xếp hạng QS World University Rankings. Theo GS. Vũ Thị Phương Anh, nguyên nhân nằm ở “sự can thiệp của cơ chế quản lý tập trung vào hoạt động học thuật”. Việc các trường không có quyền tự chủ trong tuyển dụng giảng viên hoặc thiết kế chương trình đào tạo khiến họ không thể cạnh tranh với khu vực.
Mô hình của ông Lâm tuy có những ưu điểm trong đào tạo nhân lực công nghệ, nhưng thiếu vắng yếu tố then chốt là tự do tư tưởng và quyền con người. Để thực sự tạo ra “thế hệ vươn mình”, Việt Nam cần xây dựng khung pháp lý bảo vệ tự do học thuật, cho phép tranh luận đa chiều về các vấn đề xã hội. Bước đi này không chỉ phù hợp với xu thế toàn cầu mà còn giải phóng tiềm năng sáng tạo – yếu tố sống còn trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp.
Như ông Lâm từng phát biểu: “Thanh niên phải là lực lượng tiên phong trong đổi mới sáng tạo”. Tuy nhiên, sự tiên phong đó chỉ có thể bùng nổ khi họ được quyền tư duy độc lập, không bị ràng buộc bởi các khuôn mẫu ý thức hệ cứng nhắc. Phát triển con người toàn diện, xét đến cùng, phải là quá trình giải phóng tiềm năng cá nhân chứ không phải khuôn định theo ý chí chủ quan của bất kỳ nhà lãnh đạo nào.
___________________
Tham khảo:
No comments:
Post a Comment