Wednesday, April 30, 2025

Tiết lộ của cựu CIA: Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bị Mỹ 'đâm sau lưng' như thế nào?
30/04/2025(7 giờ trước)
BBC

Getty Images
Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu, người cầm quyền từ 1967-1975

"Tổng thống Thiệu bị lợi dụng, bị ép từ chức để Mỹ có thể đàm phán hòa bình với cộng sản. Ông Thiệu khi ấy chỉ là con tốt trên bàn cờ," cựu CIA Frank Snepp nhớ lại những ngày cuối cùng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

Ông Nguyễn Văn Thiệu làm tổng thống Việt Nam Cộng hòa trong giai đoạn đầy biến động 1967-1975. Ông Thiệu từng là một ứng viên yêu thích của Hoa Kỳ và dần trở thành một "con bài mặc cả" trong việc đàm phán hòa bình với Bắc Việt.

Ngày 21/4/1975, ông Thiệu từ chức và bị ép phải đi lưu vong bốn ngày sau đó.

Nhà phân tích Frank Snepp của CIA được giao nhiệm vụ lái chiếc xe chở cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra phi trường Tân Sơn Nhứt để bay tới Đài Loan và chứng kiến những khoảnh khắc của ông Thiệu trước khi rời Việt Nam:

"Tôi dành sự kính trọng lớn lao dành cho Tổng thống Thiệu. Dù bị buộc rời Việt Nam một cách đầy nhục nhã, phải đối mặt với sự sỉ nhục lớn nhất mà bất kỳ tổng thống nào của một nước phải đối mặt nhưng ông vẫn giữ phẩm hạnh và sự tôn nghiêm khó có ai làm được nếu trong hoàn cảnh đó," ông Snepp nói với BBC.

Tổng thống thiệu 'đã khóc'

Frank Snepp là nhà phân tích đứng đầu của CIA về chiến lược của Bắc Việt trong Chiến tranh Việt Nam. Sau khi trở về Mỹ, ông đã viết cuốn sách Decent Interval, với nhan đề ngụ ý về việc Mỹ muốn có một khoảng cách thời gian hợp lý giữa việc rút quân và sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa (khoảng thời gian 'coi được'), để Mỹ không bị coi là đã bỏ rơi đồng minh hoặc thua trận một cách trực tiếp.

Trong cuốn sách, ông Snepp kể rằng phu nhân Tổng thống Thiệu do quá sợ sẽ có cuộc ám sát xảy ra nên đã rời khỏi Việt Nam, bay qua Bangkok bằng chuyến bay thương mại vào ngày 24/4/1975. Nhưng ông Thiệu lúc đó vẫn chưa muốn rời Việt Nam vì tin rằng mình vẫn còn đóng vai trò nào đó.

Ông nói với người em họ là Hoàng Đức Nhã - cũng là Tham vụ Báo chí của tổng thống - rằng nếu phải ra đi, ông phải "ra đi trong danh dự". Ông Nhã đã đáp lại bằng sự thúc giục, lo lắng cho sự an nguy của ông Thiệu:

"Không, thưa Tổng thống, giờ không còn thời gian cho danh dự hay sự thù hằn nữa. Ngài phải rời đi ngay."

Frank Snepp cũng ghi lại trong sách rằng Tổng thống Trần Văn Hương khi đó không thể hình dung được một ngày chính mình phải ép ông Thiệu đi lưu vong và ông sợ rằng những người trung thành của ông Thiệu sẽ trả thù ông một cách tàn bạo. Vì vậy, ông Hương đã đi nhờ Đại sứ Mỹ Graham Martin thực hiện việc này.

Snepp viết rằng, Đại sứ Martin không muốn đứng ra ép ông Thiệu phải đi khỏi Sài Gòn vì ông muốn giữ được tiếng thơm rằng đại sứ quán Mỹ không trực tiếp nhúng tay vào sự sụp đổ chính trị của ông Thiệu.

Getty Images
Đại sứ Graham Martin (bên phải) trình quốc thư lên Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, chính thức trở thành tân đại sứ của Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam vào tháng 6/1973, thay cho Ellsworth Bunker.

Tuy nhiên, lúc đó có một nhân tố quan trọng xuất hiện là Đại tướng Dương Văn Minh. Ông Minh tin rằng việc ông Thiệu còn nán lại Sài Gòn là một chướng ngại cho các toan tính của ông nên đã yêu cầu Charlies Timmes, người của CIA, đảm bảo rằng ông Thiệu sẽ phải lưu vong. Điều này đã củng cố quyết định của Martin.

"Đại sứ Martin và Trưởng trạm CIA Thomas Polgar vẫn tin rằng sẽ đạt được thỏa thuận với cộng sản, đặc biệt là nếu chúng tôi buộc được Tổng thống Thiệu rời khỏi đất nước.

"Chúng tôi nhận được tin từ Hà Nội - một tin tức giả, rằng Bắc Việt sẵn sàng cho phép tòa đại sứ hoạt động ở Sài Gòn sau khi ngừng bắn. Điều đó có nghĩa là có vẻ như Bắc Việt sẽ không xóa sổ miền Nam Việt Nam. Vì vậy, giới lãnh đạo nuôi kỳ vọng vào sáng 25/4 là chỉ cần ông Thiệu biến mất thì một phép màu sẽ xảy ra," ông Snepp kể lại với BBC.

Chiều tối 25/4, Snepp được giao nhiệm vụ lái chiếc xe hộ tống ông Thiệu ra sân bay Tân Sơn Nhứt để rời Việt Nam trong lặng lẽ, một nhiệm vụ cân não, nguy hiểm bậc nhất vì thời điểm đó, có nhiều người muốn ông Thiệu phải chết.

"Cộng sản muốn thủ tiêu ông Thiệu, ông ấy cũng có những kẻ thù ở Sài Gòn, bao gồm tướng Nguyễn Cao Kỳ và những nhà hoạt động phản chiến người Mỹ."
Getty Images
Từ trái qua: Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống Lyndon B Johnson và Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ chào trong khi Quốc ca Hoa Kỳ và Việt Nam được cử hành trong lễ chào mừng tại Sân bay quốc tế Guam, Agnan, ngày 20 tháng 3 năm 1967

Snepp, đêm đó lái một chiếc xe với biển số giả đến nhà cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm ở rìa sân bay Tân Sơn Nhứt. Đó là điểm khởi đầu của cuộc hành trình.

"Tôi đứng bên ngoài căn nhà ở điểm hẹn, chờ ông Thiệu đến. Thiệu xuất hiện trong bộ com-lê, tóc vuốt ngược bóng loáng, khuôn mặt hơi bóng dầu. Ông trông như một người mẫu trong ấn bản Quý ông lịch lãm vùng Viễn Đông.

"Vị cựu tổng thống đã uống một chút vì từ người ông tôi ngửi thấy mùi rượu whisky và mùi nước hoa đắt tiền, ông Thiệu đi vào trong dinh thự. Tôi đợi ở ngoài cho đến khi ông bước ra và leo lên băng ghế sau. Cùng đi với Thiệu là người bạn của ông - cựu Thiếu tướng Charles Timmes, người đã giải ngũ và khi đó đang làm việc cho CIA.

"Đoàn có bốn chiếc xe. Xe chở ông Khiêm đi đầu, xe tôi là xe thứ hai, có chiếc xe thứ ba, và tôi nghĩ còn có một chiếc xe thứ tư đi theo sau chúng tôi và đường phố tương đối vắng vẻ, khi đó khoảng 8, 9 giờ tối.

"Khi xe lăn bánh, Timmes và ông Thiệu bắt đầu ôn lại kỷ niệm. Rồi Timmes quay sang giới thiệu tôi với ông Thiệu, nói tôi là nhà phân tích giỏi nhất của Đại sứ quán, và vì thế, ông Thiệu đang được một 'tài xế siêu hạng' chở ra phi trường. Tổng thống Thiệu đùa với tôi: Hy vọng anh là tay lái lụa và tôi đáp rằng vâng, lái xe ở Bangkok còn kinh hơn nữa.

"Ông hoàn toàn bình tĩnh, nói chuyện với giọng Pháp. Vị cựu tổng thống là một người sắc bén, thông minh và sáng suốt."

Getty Images
Sau đó, Snepp tiếp tục cầm lái trên con đường tối đen như mực, trong sự im lặng đến rợn người vì lúc bấy giờ, Sài Gòn đã vào giờ giới nghiêm, đường phố chỉ còn những trạm kiểm soát.

Khi đến gần phi trường Tân Sơn Nhứt, đoàn xe đi ngang qua một đài tưởng niệm lính Mỹ tử trận có hàng chữ: "Sự hy sinh cao cả của các đồng minh sẽ không bao giờ bị lãng quên."

"Tôi nhìn thấy khuôn mặt ông Thiệu qua kính chiếu hậu và thấy ông rưng rưng. Nhiều người không tin và cho rằng ông Thiệu không bao giờ rơi nước mắt, không bao giờ để lộ cảm xúc. Tôi nói với họ: Dĩ nhiên ông ấy đã khóc. Ông ấy là một người có lòng yêu nước vĩ đại và lúc đó ông phải rời bỏ quê hương trong tình cảnh tệ hại nhất.

"Tôi thấy ông Thiệu là một người dũng cảm, không phải là người gục ngã trước biến cố này, mà là người đã thể hiện phẩm giá phi thường trong một thời khắc định mệnh của đời mình," Snepp thuật lại với BBC.

Khi đoàn xe đến được Tân Sơn Nhứt, toàn bộ khu vực ở đây đã bị cúp điện, làm rõ hơn các vệt đạn lửa của cộng sản bắn trên bầu trời, tiếng súng vẫn vang lên dọc theo vành đai thành phố.

"Lúc xuống xe, ông Thiệu quay lại, bắt tay tôi và cảm ơn vì đã đưa ông đến nơi an toàn. Tôi sửng sốt, không hiểu vì sao ông Thiệu lại cảm ơn mình. Có thể ông ấy đã nghĩ rằng tôi sẽ giết chết ông nên cảm ơn vì điều đó đã không xảy ra. Bởi lẽ, Thiệu không thể nào biết chúng tôi là ai, mà chỉ có một lựa chọn là phải tin rằng người Mỹ sẽ cứu và đưa ông đến chốn an toàn."

Sau đó, ông Thiệu đã bước lên máy bay ngay lập tức, Đại sứ Martin đã có mặt sẵn ở đó để nói lời tạm biệt.

"Khi ông Thiệu mất hút vào lòng máy bay, ông đại sứ bước xuống khỏi bậc thang nối lên máy bay, ông cúi người, túm lấy cái cầu thang đó và giật phăng nó ra khỏi chiếc máy bay, như thể ông đang cố gắng cắt đứt sợi dây cuối cùng gắn kết người Mỹ với chính sách định mệnh này. Và thế là vị cựu tổng thống rời khỏi Sài Gòn."
Frank Snepp
Frank Snepp, "tai lái siêu hạng" đưa cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đến phi trường Tân Sơn Nhứt. Ông là chuyên gia phân tích chiến lược của CIA từng hoạt động tại miền Nam Việt Nam trong thời chiến.

Từ đồng minh thân cận đến 'bị đâm sau lưng'

Quay lại khoảng thời gian ngay sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ năm 1963, Nam Việt Nam rơi vào vòng xoáy bất ổn của các cuộc đảo chính và phản đảo chính, khi hết vị tướng tham vọng này đến vị tướng mưu mô khác tìm cách lợi dụng tình trạng bất ổn chính trị để mưu cầu lợi ích cá nhân.

Đến năm 1967, nhờ vào gợi ý của Daniel Ellsberg - một nhà phân tích quân sự trẻ tuổi của Mỹ nên chính phủ Hoa Kỳ đã quyết định dồn sự ủng hộ cho một ứng viên. Đó là một vị tướng miền Nam khiêm tốn, được cho là phi chính trị tên là Nguyễn Văn Thiệu, nhằm chấm dứt tình trạng hỗn loạn.

Khi ông Thiệu được bầu làm tổng thống vào cuối năm đó, nhân vật có thực quyền trong chính trường vẫn là Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ. Tuy nhiên, Mỹ đã từ từ loại bỏ sức ảnh hưởng của ông Kỳ bằng cách chuyển tất cả các vấn đề chính sách cho riêng ông Thiệu.

Một số đồng minh quyền lực nhất của ông Kỳ đã thiệt mạng vào dịp Mậu Thân 1968, khiến Mỹ càng quyết tâm củng cố quyền lực cho ông Thiệu bằng mọi giá, để họ có thể bắt đầu rút quân khỏi Việt Nam mà không lo ngại sẽ gây ra một cuộc khủng hoảng chính trị mới.

"Ban đầu ông Thiệu có khả năng quy tụ được các phe phái khác nhau trong nước. Ông được xem là kiên định, có thể hàn gắn những chia rẽ giữa Công giáo và Phật giáo. Nhưng khi Mỹ kết luận 'Việt Nam hóa chiến tranh' đã thất bại và thực tế là Nam Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng tự mình chiến đấu thì Tổng thống Thiệu bắt đầu bị xem là kém hiệu quả."

"Thời điểm đó, Hoa Kỳ bắt đầu nghiêm túc đàm phán hòa bình sau lưng ông Thiệu từ năm 1970 và có một thỏa thuận vào tháng 10/1972 nhưng chưa bao giờ nói cho ông Thiệu biết chuyện gì đang diễn ra. Ông Thiệu bị gạt ra lề ngay trong vai trò người kiến tạo hòa bình tại chính đất nước mình. Mọi chuyện trở nên hỗn loạn. Tổng thống Thiệu từng là một ứng cử viên đại diện cho sự đoàn kết, nhưng đến năm 1968, hình ảnh đó bắt đầu sụp đổ," ông Snepp phân tích.

Getty Images
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đi cùng đại lão hòa thượng Thích Tâm Châu trong Thánh lễ cầu siêu cho Ngày cầu siêu toàn quốc vào năm 1968

Cụ thể là cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968 của cộng sản và những thắng lợi ban đầu về mặt chính trị đó đã khiến cho ông Thiệu mất dần tín nhiệm trong mắt Hoa Kỳ.

"Vào tháng 10 năm 1970, Nixon tiết lộ rằng Mỹ thực sự đã mất niềm tin vào ông Thiệu một phần vì ông quá dễ dãi, dung túng chuyện tham nhũng, phần khác vì ông ta đã đưa quá nhiều người thân tín vào các vị trí then chốt, khiến chính quyền miền Nam yếu đi.

"Lúc đó, Nixon bắt đầu nói đến việc thương lượng với miền Bắc và đã có các cuộc đàm phán bí mật, bao gồm ngừng bắn ngay tại chỗ, cho phép quân đội Bắc Việt vẫn ở lại miền Nam. Điều này nghĩa là Mỹ càng mất tín nhiệm nơi ông Thiệu," ông Snepp nói.

Theo lời ông Snepp, ông Thiệu biết được mình bị "đâm sau lưng" nhờ vào tình báo từ điệp viên Võ Văn Ba của CIA.

Ngày 18/10/1972, Ngoại trưởng, Cố vấn an ninh Mỹ Henry Kissinger tới Sài Gòn và mang theo bức thư của Tổng thống Nixon giải thích cặn kẽ về kết quả tốt đẹp của việc đàm phán tại Paris qua bản sơ thảo hiệp định, trong đó có việc cho quân Bắc Việt ở lại miền Nam.

Getty Images
Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu (phải) và Ngoại trưởng, Cố vấn an ninh Henry Kissinger tại Dinh Độc lập vào ngày 17/8/1972

Sau đó, ông Thiệu đã phản đổi rất gay gắt, nhất quyết không ký và khiến cuộc đàm phán sụp đổ.

"Lúc đó, tôi nghĩ ông Thiệu đang hành động độc lập vì lợi ích của Sài Gòn, ông dám thách thức Hoa Kỳ. Và tháng 12 năm đó, Nixon cho ném bom Hà Nội, một trong những chiến dịch oanh tạc dữ dội nhất của cuộc chiến.

"Đó là một thông điệp gửi đến hai bên: cho Bắc Việt biết rằng họ phải trở lại bàn đàm phán và cho ông Thiệu biết rằng Hoa Kỳ vẫn ủng hộ ông," Snepp phân tích với BBC.

Sau đó, ông Thiệu đã đồng ý trở lại bàn đàm phán và chấp nhận Hiệp định Paris nhưng vị tổng thống không mang bất kỳ ảo tưởng nào về đồng minh Hoa Kỳ. Theo lời của ông Snepp, đại sứ cuối cùng của Mỹ tại Sài Gòn - ông Graham Martin - đã nói dối ông Thiệu rằng Mỹ sẽ vẫn giúp miền Nam, rằng Tổng thống Nixon sẽ dội bom Hà Nội nếu cần.

Hiệp định Paris được ký ngày 27/1/1973
Tuy nhiên, Đại sứ Martin đã nói dối vì Quốc hội Mỹ đã thông qua Đạo luật Quyền Chiến tranh vào tháng 11 năm 1973, qua đó hạn chế quyền hạn của tổng thống Mỹ trong việc khởi xướng hoặc leo thang các hành động quân sự ở nước ngoài.

"Hoa Kỳ không bao giờ có thể đưa B52 trở lại. Nhưng Đại sứ Martin đã khiến ông Thiệu tin rằng 'gã điên' Nixon vẫn sẽ giúp miền Nam. Vì vậy, ông Thiệu đã bị đánh lừa.

"Và đó chính là tiến trình mối quan hệ giữa Mỹ và ông Thiệu: từ một đồng minh kiên định được Mỹ tin tưởng, Mỹ bắt đầu đàm phán với Bắc Việt sau lưng ông và khi vấp phải phản đối, chúng tôi khiến ông ấy lầm tưởng rằng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục giúp đỡ. Nhưng đó không phải sự thật. Chúng tôi đã lừa dối ông ấy," ông Snepp nói với BBC.


Theo cựu CIA, những gì mà ông Thiệu phải gánh vác về sau là quá nặng nề bởi lẽ Mỹ lúc nào cũng tìm cách biến ông thành một đồng minh 'tốt hơn'. Tốt ở đây nghĩa là biết nghe lời, tuân lệnh hơn.

"Ông ấy phải đối mặt với việc Mỹ cắt viện trợ, với những tín hiệu xung đột nhau về ý định của phía cộng sản. Vậy nên, nhìn lại, tôi thật sự rất khâm phục Tổng thống Thiệu, dù phải ra đi trong ê chề nhục nhã, ông vẫn giữ được sự tôn nghiêm theo cách mà tôi không chắc bản thân mình có thể làm được," Snepp chia sẻ.



Tin liên quan



No comments:

Post a Comment