VNTB – Nhà thơ Hữu Loan và bài thơ “Màu Tím Hoa Sim”Phan Đức Minh
16.04.2025 6:15
VNThoibao

Theo báo chí trong nước, Thi sĩ Hữu Loan đã từ trần tại nhà riêng ở Thanh Hóa vào chiều tối ngày 18/03/2010. Tên tuổi Hữu Loan đặc biệt gắn liền với bài thơ “Màu tím hoa sim” đã từng làm rung động trái tim của biết bao thế hệ. Thế nhưng Hữu Loan còn được biết đến như là một nhà thơ đầy khí phách trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm…
Nhà thơ Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan còn có tên khác là Nguyễn Văn Dao. Ông sinh ngày 12/4/1916, tại thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Từ 1936 đến 1942, Hữu Loan đã tham gia các phong trào thanh niên chống Pháp. Ông đỗ tú tài năm 22 tuổi. Sau đó đi dạy học. Từ 1943 đến 1945, tham gia phong trào Việt Minh tại quê nhà, tham dự Ủy Ban Lâm Thời tỉnh Thanh Ho.
Về thời kỳ này, ông kể: “Những năm 1943, 1944, 1945, Nhật đánh Pháp ở ta dữ dội, trường tư tôi dạy phải đóng cửa, tôi về quê vừa làm ruộng, đánh cá để nuôi bố mẹ và để hoạt động Việt Minh bí mật. Mấy năm ấy đói to. Bố mẹ tôi vẫn phải nhịn cháo rau cho cán bộ Việt Minh bí mật về ăn. Những người cùng ở ban khởi nghĩa với tôi làm to cả, gia đình nào bố mẹ cũng sung sướng… Mẹ tôi buồn ốm chết. Bố tôi chửi tôi: “Mày làm Việt Minh chặt hết của tao một giặng tre để rào làng, rào giếng”…
Sau cách mạng tháng Tám, ông vào bộ đội. Năm 1949, ông chỉ được phép về nhà mấy ngày để làm đám cưới (người vợ đầu, mới 16 tuổi). Trở lại chiến khu, ba ngày sau, được tin vợ chết đuối, Hữu Loan làm bài thơ Màu Tím Hoa Sim, trở thành một trong những tác phẩm lãng mạn nhất thời kháng chiến. Bài thơ bị cấm, nhưng vẫn được truyền tụng ngầm. Đến khi Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bùng nổ, Nguyễn Bính cho đăng lần đầu trên báo Trăm Hoa. Sau này Phạm Duy phổ nhạc ở miền Nam.
Hữu Loan hoạt động bên cạnh tướng Nguyễn Sơn ở Liên Khu Tư (Thanh Hoá). Ông ủng hộ chính sách biệt đãi văn nghệ sĩ của tướng Nguyễn Sơn. Vì chống đường lối thân Tàu của Trung Ương, tướng Nguyễn Sơn bị cách chức và bị gửi trả về Trung Quốc. Hữu Loan đề nghị giữ Phạm Duy ở lại, nhưng không được. Ông bèn trở về đi cày.
Đến năm 1954, sau ngày tiếp quản thủ đô Hà Nội, Hữu Loan trở lại công tác ở Hội Nhà Văn, làm biên tập viên cho báo Văn Nghệ. 1956, Hữu Loan tham gia Nhân Văn Giai Phẩm. ..
Màu Tím Hoa Sim
Tác giả: Hữu Loan
Bài thơ Màu Tím Hoa Sim, viết để khóc người vợ đầu tiên của ông là Lê Ðỗ Thị Ninh, được nhà thơ Nguyễn Bính công khai cho đăng trên Trăm Hoa ở Hà Nội năm 1956, sau nhiều năm được truyền miệng. Ngoài Màu Tím Hoa Sim, bài Hoa Lúa của ông cũng là một bài thơ tình được ưa thích. Qua hơn 30 năm bầm dập hiện nay, ông sống khá vất vả tại quê nhà.
Mở đầu là một đoạn Ad libitum (hát tự do), nhẹ nhàng dẫn dắt người nghe đi vào câu chuyện:
Đúng là đoạn mở đầu theo ý nhà thơ. Nhạc sĩ cũng dùng lối kể chuyện, thong thả, tùy cảm hứng của ca sĩ mà giới thiệu từng nhân vật chính của câu chuyện. Hoàn toàn chỉ mới thông tin chung, chưa có sự kiện gì xảy ra trong đoạn Ad libitum này. “Người em gái tôi yêu” được lập đi lập lại 4 lần, vừa để nhấn mạnh tình cảm mà vừa để nhạc trở về lại với âm giai chính (Am)
Thể Ad libitum được nối tiếp bằng nhịp 2/4, từ âm giai thứ (Am) chuyển sang âm giai trưởng (A). Không khí rộn rã, lạc quan của một anh lính thời chiến về quê cưới vợ. Hẵn là anh vui và tự hào lắm. Bận quân phục làm lễ cưới, đúng là một chú rễ “kỳ khôi”. Nàng dâu cũng cười vui. Họ quên hết tất cả hiểm họa chiến tranh có thể mang lại cho hạnh phúc lứa đôi. Nhìn anh chồng “kỳ khôi” bận quân phục trong ngày cưới, cô vợ rất hãnh diện về “Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt” này đã “xếp bút nghiên theo việc kiếm cung“, mắng yêu chồng là “kỳ khôi”…
Trở lại Ad Libitum để diễn đạt tâm trạng người chiến sĩ. Âm giai thứ lúc này cũng tạo điều kiện cho người hát diễn đạt gần như theo lối ngâm thơ: Buồn man mác, âu lo, chạnh lòng “nhỡ khi mình không về”. Chính đoạn này là khởi sự cho sự kiện “Nhân Văn Giai Phẩm”. Hữu Loan cũng đã phải đánh đổi cả sự nghiệp của mình vì bị cho là chống đối chính quyền, là phản chiến. Tình cảm do dự kiểu này của người lính được cho là không có “lạc quan cách mạng”. Người chiến sĩ đã dâng trọn trái tim cho đất nước, không còn chỗ riêng tư để mà “thương người vợ, bé bỏng chiều quê”. Thật ra gia đình là tế bào của xã hội, không có thương vợ thì sẽ giảm bớt động cơ cho người lính bảo vệ biên cương. Chính câu chuyện thương tâm này mới đánh động bao chàng trai khác lên đường. Đừng suy tư theo lối tiêu cực mà lo sợ người ta nản lòng.
Hai bài phổ nhạc trước đây lại lạm dụng tình cảnh bi đát này mà quên mất khía cạnh bi hùng của người lính lấy vợ thời chiến. Chính lối diễn tả đó mới là phản chiến. Nghe hai bài trên, người con trai sẽ mềm lòng, run tay không còn cầm súng nổi nữa. Nhưng nghe bài “Áo anh sứt chỉ đường tà“, lúc rộn ràng hùng tráng, lúc suy tư sâu lắng, mới thấy rõ sự tàn ác của chiến tranh do quân xâm lược gây ra.
Nhịp 2/4 thể hiện nhịp quận hành. Sùng sục, sôi giận quân thù đã làm “chết người gái nhỏ miền xuôi”.
Bài hát chuyển sang nhịp 3/4 theo điệu valse, nhịp nhàng man mác với tình cảnh thực tại và kỹ niệm từ quá khứ.
Rồi lại trở về với Ad Libitum để tự sự, để kể lể. Nàng còn trẻ lắm, “tóc nàng hãy còn xanh“. Ba người anh nàng, vì chiến trường xa cách lại được nghe tin nàng mất trước khi tin vui lấy chồng được báo đến sau đó. Thật là một hoàn cảnh đau thương, không những cho người chồng chiến binh, mà cho cả những người thân thích ruột thịt.
Người con trai không đau buồn đến độ tự kết liễu đời mình cho người đời thêm nước mắt. Không! Người chiến binh vẫn trở lại hành quân, nhưng chiều hành quân bây giờ với tiếng quân ca với nỗi nhớ “rờn rợn trên mộ vàng“. Đoạn này, với tiết tấu quân hành nhịp 2/4, ai dám bảo là bài thơ này tiêu cực, làm nhụt ý chí chiến đấu? Vẫn “những đoàn quân và tiếng quân ca” oai hùng, bừng bừng ý chí chiến đấu. Nhưng không thể nào chối cải được tâm tư thực sự của người lính vẫn nghe “có lời nào ru ời ợi!”. Tiếng ru à ơi từ xa vời vợi. Phải nói Hữu Loan là người đầu tiên đưa ra lời ca này. Thật là gọn gàng, súc tích.
Phạm Duy đã tận dụng khai thác hai thái cực giữa tình yêu đất nước và tình cảm riêng tư trong đoạn kết này. Vẫn nhịp quân hành, vẫn chiến đấu nhưng với tình yêu riêng tư làm động cơ cho “chiều hành quân qua những đồi sim“. Người lính hành quân đến đâu cũng thấy toàn là màu tím hoa sim của của vợ mình. Chính điều này sẽ thúc giục anh vượt những ngọn đồi hành quân. Đồi nào cũng tím hoa sim, cũng có hình bóng người yêu mình bên cạnh… Nhịp quân hành (pasodoble) này vẫn cứ tiếp diễn với cụm từ “đồi tím hoa sim“, cho người nghe có cảm nhận là người lính vẫn chắc tay súng chiến đấu vì quê nhà, vì người yêu. Nhất là nốt nhạc cuối cùng của bài hát (chữ sim) lại ở lơ lững mà không trở về chủ âm của âm giai chính. Nốt nhạc này càng tô đậm thêm ấn tượng cuộc chiến chống giặc xâm lăng chưa chấm dứt, vẫn còn tiếp diễn với “niềm đau màu tím” không bao giờ nguôi.
Trong ba bài nhạc phổ vừa kể ở trên, thật ra lý do mà bài của Phạm Duy được đánh giá cao hơn là nhờ nó lột tả được tính chất bi hùng của câu chuyện. Hai bài kia thì chỉ nghiêng về tính bi thảm nhiều hơn. Về kỹ thuật, bài phổ nhạc của Phạm Duy đã dùng rất nhiều công cụ của ca khúc mà diễn tả và diễn giải ý nghĩa, tình cảm của bài thơ. Tính chất đặc biệt nhất về kỹ thuật mà hai bài trước không có là: Bài “Áo anh sứt chỉ đường tà” có thể hát bè ở những đoạn chuyển sang âm giai trưởng với nhịp 2/4 quân hành. Bài này có thể được trình diễn dưới dạng dàn hợp xướng với những đoạn lĩnh xướng cá nhân như một thiên trường ca, không thua gì những bài hát đã từng nổi tiếng một thời…
No comments:
Post a Comment