Tô Thùy Yên: Kinh khổTừ Thức
20-5-2023
Tiengdan
Tô Thuỳ Yên ra đi ngày 21/5/2019.
Những lúc lạc lõng, không biết mình đang ở đâu, đi đâu, nhiều người quay về với thơ phú, với thi sĩ. Nhất là một thi sĩ, ngoài cái ngổn ngang tâm sự riệng, còn chia cái đau chung của đồng bào. Một thi sĩ chứng nhân của một cơn ác mộng, một thời đại khủng khiếp, một thi sĩ mang cái đau của mình để nói lên cái đau chung của cả một dân tộc. Dùng ngôn ngữ rất riêng tư, cái nhìn rất riêng tư, để nói thay những người đau, nhưng không biết diễn tả cái đau của mình.
Có người nói sách để đọc một vài lần, thơ để đọc cả đời, càng đọc càng thấm, mỗi lần đọc tìm thấy một cảm giác lạ, một xúc động mới. Nhất là khi thơ đã đạt, như thơ Tô Thuỳ Yên (TTY). Thơ TTY không phải để “ru với gió, mơ theo trăng và thơ thẩn cùng mây” như Xuân Diệu.
Thơ TTY là chứng nhân của một cuộc bể dâu, là một lời xưng tội, một tụng niệm giải oan cho những trầm luân của một kiếp đoạ đầy. Một kinh khổ.
Đúng là kinh khổ, bởi vì thơ TTY rất gần với tư tưởng nhà Phật, thấy đời là bể khổ, nhưng rất zen, rất thiền, không một chút oán thù.
Đọc “Ta Về”, bài thơ dài TTY viết về ngày ra khỏi trại cải tạo, (chút rượu hồng đây xin rót xuống/ Giải oan cho cuộc bể dâu này), tưởng như nghe Văn tế Thập Loại Chúng Sinh của Nguyễn Du:
“Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người
Hương lửa đã không nơi nương tựa
Hồn mồ côi lần lữa bấy niên” – (Nguyễn Du)
Nếu tình yêu dễ diễn tả qua thơ hơn là văn vần, hơn là diễn văn, cái đau thương uất nghẹn cũng vậy. Phải bao nhiêu trang mới nói đuợc tất cả cái đau đớn trong 2 câu thơ Tô Thuỳ Yên, diễn tả cuộc chạy giặc:
“Xứ khổ, gây chi mùa thảm khốc
Hỡi ơi trời đã bỏ rơi dân”
Hay tia hy vọng le lói trong bể khổ:
“Xin cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui vì những chuyện lẻ loi”
Đọc TTY, nhiều khi nghĩ tới thơ Quang Dũng, cái hình ảnh ghê rợn về chiến tranh trong thơ Quang Dũng:
“Mẹ già tôi em có gặp đâu không
Những xác già nua ngập cánh đồng
Tôi nhớ một thằng con bé nhỏ
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông”
(Mắt Người Sơn Tây – Quang Dũng)
Quang Dũng mơ ước: “Bao giờ tôi gặp em lần nữa/ Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca/ Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ/ Em có bao giờ em nhớ ta?” TTY thề nguyền, cam kết: “Ta về dẫu phải đi chân đất/ Khắp thế gian này để gặp em”.
Người Việt làm thơ rất nhiều, nhưng thi sĩ, rất hiếm. Thi sĩ một mình một chiếu như Tô Thuỳ Yên còn hiếm hơn nữa.
Thanh Tâm Tuyền nói TTY là một nhà thơ miền Nam. Vừa đúng vừa sai. Đúng, bởi vì thơ TTY không hề có căm thù, kêu gào chém giết như thơ miền Bắc “xã hội chủ nghĩa”. Đúng là tâm hồn của một miền Nam hiền hoà, độ lượng, của một xã hội nhân bản, trong đó tình người là cái đáng quý trọng nhất.
TTY là sĩ quan tâm lý chiến của VNCH, nhưng không hề nhìn người khác là ta, là địch, chỉ thấy một dân tộc đoạ đầy.
“Mối sầu như nước sông
Chẩy hoài mà không cạn….
Giữ làm gì đau thương
Đã đôi lần nhầm lẫn”
( Đêm qua bắc Vàm cống)
Sai, bởi vì mặc dù sinh ra ở miền Nam (Gò Vấp, Tân Định), ngôn ngữ TTY không phải là ngôn ngữ dễ dãi và dễ thương của miệt vườn, nhưng là ngôn ngữ rất cầu kỳ của một nhà thơ miền Bắc, đài các của một nhà thơ Huế.
Về ngôn ngữ, thơ TTY chững chạc, cổ điển như thơ Đường, nhưng mới lạ, táo bạo hơn thơ mới. Đạo mạo như một người đứng tuổi, một ông đồ già, từng trải, ngồi nhâm nhi bên tách trà, ngẫm nghĩ về nhân tình thế thái, về cuộc đời dâu biển:
“Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay
Chỉ có thế. Trời câm đất nín
Đời im lìm đóng váng xanh xao”
Nhưng trẻ, mạnh, vũ bão như thanh niên vào đời, muốn yêu, muốn thương, muốn nhớ. Muốn sống:
“Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em”
Những yếu tố chính của thơ là từ ngữ, hình ảnh, âm điệu, và tư tưởng. Thơ TTY có đủ:
“Bao giờ, cho đến bao giờ nữa.
Em gánh vui về họp chợ đông”
Trong các yếu tố đó, quan trọng hàng đầu là từ ngữ. Thi sĩ Pháp Mallarmé dứt khoát hơn nữa: “Không phải với ý tưởng người ta làm thơ, nhưng với từ ngữ” (Ce n’est pas avec des idées qu’on fait des vers; c’est avec des mots).
TTY cũng nghĩ như vậy, và cực kỳ trân trọng với từ ngữ. Ông nói, trong một cuộc phỏng vấn dành cho Nguyễn An Dân: “Tôi rất dễ bị ray rứt, dằn vặt, chỉ vì một tứ chưa ổn, một chữ chưa đắc”.
Và giải thích: “Thơ biến cái thật thành cái không thật. Bất cứ nhà thơ nào cũng sử dụng và đồng thời chối nhận ngôn ngữ. Sự mới mẻ độc đáo trong thơ, trái với các bộ môn khác trong văn chương không nằm trong đề tài (đề tài trong thơ thường khi rất thông thường và được coi như hằng cửu. Thi sĩ nhìn thấy cái đẹp ở những cái tầm thường)”.
Từ ngữ TTY đài các nhưng gần gũi, sáng tạo cực kỳ nhưng tưởng như dễ dãi. Vừa lạ, vừa thực. Vừa xa vừa gần gũi. Chuyện đó không phải dễ. Có người dùng chữ lạ, câu lạ, nhưng không thực, chỉ lộ cái lập dị, giả tạo. Có người rất thực, nhưng nhàm, nếu không thô tục, bởi vì cái thực trong nghệ thuật, nó khác với sự thực ngoài đời.
Về tư tưởng, thơ TTY đau xót, bi quan nhưng bao dung; đứng ngoài, đứng trên cái thù hận, để thấy cái bát ngát của đất trời, cái giới hạn của kiếp người.
Muốn nói được phần nào cái đau thương, uất hận, cái mệt mỏi, cái chịu đựng vô hạn, cái sức sống lạ kỳ trong đại hoạ của dân tộc Việt, phải có những nhà văn dài hơi, với tầm vóc Tolstoi, Pasternak mà chúng ta chưa có. Hay một thi sĩ như tác giả “Ta về”.
“Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh”
Nằm tù cải tạo ra, gia đình chia ly, cuộc đời tan nát, nhà cửa quê hương tang thương, nhưng cái ghê rợn nhất đối với thi sĩ là một xã hội không còn nhân phẩm, đánh mất lương tri. Ông viết: “Chiến tranh, nhất là chiến tranh uỷ nhiệm, huynh đệ tương tàn, bao giờ lại chẳng gây thương tổn nặng nề cho nhân phẩm”.
Đôi khi tôi hoài nghi khả năng của văn chương Việt Nam trong việc diễn tả cái kinh hoàng cùng tận của một cuộc đổi đời, nhưng hoàn toàn tin là thơ Việt Nam có đủ khả năng đó. TTY là một bằng chứng.
Nhiều nhà nghiên cứu nhận xét: Văn chương chỉ có ở một vài nước, nhưng thơ thì cùng khắp. Jorge Luis Borgnes không nói gì khác: Trong mọi trường hợp, thơ đến trước văn vần, hình như người ta hát (hay khóc) trước khi biết nói ( Dans tous les cas, la poésie est antérieure à la pose, on dirait que l’homme chante avant de parler).
Tháng 5-1019, TTY ra đi, bỏ dở thiên trường ca về nỗi đoạn trường của một dân tộc. “Ta tiếc đời ta sao hữu hạn/ Đành không trải hết được lời ta”.
Thơ cũng không trải hết được lòng ta, thôi đành tiền miên trong cô quạnh:
“Ta hỏi hiu quạnh hề, Hiu quạnh lớn
Mà sao Hiu quạnh lớn cứ làm ngơ”
Sáng dậy, nghe tin TTY “đi xa”, cứ muốn tin là một fake news, một chuyện không có thực:
“Đi xa như lạc trong trời đất
Thủy tận, sơn cùng xí xoá ta
Cõi chiều đứng lại, khóc như liễu
Có thật là ta đã đi xa?” (Đi xa)
Sơn cùng, thủy tận xí xóa người, nhưng sẽ bó tay, làm sao xóa được “Ta Về”, “Chiều trên Phá Tam Giang”. Làm sao xoá được Tô Thuỳ Yên?
Edgar Allen Poe nói: Nếu thơ chưa xé nát tâm hồn của bạn, bạn chưa biết thơ là gì (If a poem hasn’t ripped apart your soul, you haven’t experienced poetry). Với TTY, nhiều người đã biết thơ là gì.
No comments:
Post a Comment