TẠI SAO VẾT THƯƠNG VẪN CHƯA LÀNH ?Phạm Trần
(02/023)
Nhìn qua ngoảnh lại, ngày 30/4 lại đến với gần nửa Thế kỷ chia cách trong-ngoài mà sao vết thương dân tộc vẫn chưa lành ?
Câu hỏi này không mới mà
từ năm 2019, Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao Việt Nam kiêm Chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở
nước ngoài của Nhà nước Cộng sản Việt Nam, ông Nguyễn Đình Bin, đã trăn
trở:”Sau 15 năm đi vào cuộc sống, Nghị quyết 36 NQ/TW đã được thực thi phần
nào, được cộng đồng hoan nghênh, tạo ra khá nhiều đổi thay. Nhưng tôi vẫn buồn:
vết thương dân tộc thực sự vẫn chưa lành!!!”
Ông đặt câu hỏi:”Vì
sao, cuộc chiến ác liệt nhất đã kết thúc và đất nước đã thu về một mối hơn 4 thập
kỷ mà dân tộc ta, nói cho cùng đều là nạn nhân của sự đô hộ và xâm lược của nước
ngoài nói trên, vẫn chưa hòa giải được với nhau? Cũng chính sự đô hộ và xâm lược
của nước ngoài đó đã chia ly bao gia đình Việt và cả dân tộc Việt, gây ra cảnh
huynh đệ tương tàn trên đất nước ta. Thế mà ta đã hòa giải được với họ, còn
chúng ta, anh em một nhà “ nhiễu điều phủ lấy giá gương , người trong một nước
phải thương nhau cùng”, thì lại chưa hòa giải được với nhau?
(Nguyễn Đình Bin, ngày 21/03/2019)
Thắc mắc của ông Bin,
sinh ngày 10 tháng 7 năm 1944 tại Hải Dương,
có lý do nhưng đảng CSVN không nói ra vì không muốn nhận trách nhiệm chủ
động trong công tác “hòa hợp, hòa giải” dân tộc. Hơn nữa, trong nội bộ đảng CSVN vẫn tồn tại thành phần “kiêu ngạo
Cộng sản”, tự cho mình quyền từ chối đối thoại với những người bại trận. Những
người này, tiêu biểu như Nhà nghiên cứu, doanh nhân, luật sư
Nguyễn Trần Bạt nói rằng: “Vấn đề hòa giải nên xem lại, bởi vì bài toán xung
đột của chiến tranh đã được giải xong rồi, người thắng kẻ thua cũng rõ rồi. Hòa
giải là phải có hai bên, vì thế tôi nghĩ bây giờ không có cơ sở nào để đặt ra
vấn đề hòa giải. Hòa giải là kết quả của sự thương lượng chính trị của các phe
chính thống giai đoạn trước 30-4-1975. Còn hòa hợp là công việc mà Đảng Cộng
sản Việt Nam đã làm từ năm 1946 đến giờ, là một trong những thành tựu chính trị
quan trọng nhất của Đảng cộng sản Việt Nam”. (báo Quân đội Nhân dân, ngày 26/04/2020)
Như vậy, nếu “bên
thắng cuộc” mà chỉ muốn “bên thua cuộc” quay về tập hợp dưới trướng cai trị độc
tài của đảng CSVN thì làm sao có thể đoàn kết dân tộc được.
NQ-36 – KL-12
Vì vậy, sau 19 năm
ra đời của Nghị quyết 36 (NQ-36) “Về công tác đối với người Việt Nam ở nước
ngoài”, ban hành ngày 26/3/2004, mọi chuyện vẫn giậm chân tại chỗ. Vì vậy, Bộ
Chính trị phải ra thêm Kết luận 12-KL/TW ngày 12/8/2021 “về công tác người
Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới.”
KL-12 nhìn nhận:”Công tác người
Việt Nam ở nước ngoài còn một số hạn chế. Có nơi, có lúc công tác người
Việt Nam ở nước ngoài chưa được các cơ quan, tổ chức quan tâm đúng mức; công
tác nắm tình hình cộng đồng, tham mưu, kiến nghị và phối hợp triển khai chủ
trương, chính sách chưa sâu sát, chặt chẽ và kịp thời; chưa phát huy được tiềm
năng, thế mạnh của đồng bào ta ở nước ngoài.”
(Kết luận
12-KL/TW,ngày 12/8/2021)
Do đó, Bộ Chính trị cho rằng “công tác
người Việt Nam ở nước ngoài cần tiếp tục được triển
khai toàn diện và mạnh mẽ hơn”,
đặt lên hàng đầu “chủ trương đại đoàn kết
toàn dân tộc.”
KL-12 cũng lập lại những gì đã viết trong NQ-36, theo đó:”Đổi mới, đa
dạng hoá các hình thức, linh hoạt trong triển khai vận động người Việt Nam ở nước
ngoài, nhất là thế hệ trẻ, gắn bó với quê hương, đóng góp tích cực vào sự phát
triển của nước sở tại, trở thành cầu nối, góp phần thúc đẩy quan hệ tốt đẹp giữa
Việt Nam với các nước. Kiên trì vận động những kiều bào còn có định kiến để củng
cố niềm tin, yên tâm hướng về Tổ quốc, nhận thức và
hành động phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc. Tiếp tục coi
trọng, quan tâm hỗ trợ và phát huy vai trò của các lực lượng nòng cốt, những
người có uy tín, ảnh hưởng trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.”
Chủ trương này rõ
ràng là nhà nước CSVN muốn thao túng hàng ngũ các tổ chức của người Việt ở nước
ngoài để kéo họ vào qũy đạo với CSVN.
Nhưng KL-12 cũng như
NQ-36 đã không che được bản chất “nói một
đường làm một nẻo” của Lãnh đạo, vì ngay đối với người trong nước mà nhà nước
chưa “hòa giải” được thì làm sao nói chuyện phải trái với người Việt phải bỏ nước
ra đi chỉ vì không sống nổi với chế độ.
Theo ước lượng của các Tổ chức nhân quyền
Quốc tế thì Việt Nam đáng giam cầm từ 200 đến 300 tù nhân lương tâm. Những tù
nhân nổi tiếng gồm có Trần Huỳnh Duy Thức, Phạm Chí Dũng, Phạm Thị Đoan Trang,
Nguyễn Tường Thuỵ,Lê Hữu Minh Tuấn,Trương Châu Hữu Danh và Trần Đức Thạch.
Những người này bị tù vì bị nhà nước cáo
buộc có “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”. Nhưng chính phủ Việt Nam nói
bừa rằng ở Việt Nam “không bao giờ có cái gọi
là “tù nhân lương tâm” mà thực chất đó chỉ là những người vi phạm pháp luật.” (báo Quân đội Nhân dân, ngày 25/05/2020)
CHUYỆN CŨ NHAI LẠI
Trong Nghị quyết
36, đảng CSVN tuyến bố:”Đảng
và Nhà nước ta luôn luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ
phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam.”
Nhưng cụm từ “cộng
đồng” ở đây chỉ nên được hiểu là “cộng đồng thiểu số thân Hà Nội ở nước ngoài”,
tập trung ở Nga và Đồng Âu cũ, và ba nước Thái-Campuchea và Lào.
Bên cạnh đó còn có “cộng đồng đa số
người Việt” chống Cộng sản bỏ nước ra đi từ biến cố 30/4/1975, phần lớn định cự
ở Mỹ, Canada và Úc Đại Lợi.
Trong Nghị quyết 36, đảng CSVN hứa :”Xóa bỏ mặc cảm, định
kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần
cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Mọi
người Việt Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa vị
xã hội, lý do ra nước ngoài, mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu trên đều
được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.”
Nhưng sự thật là đảng chỉ muốn mở cửa kêu gọi người Việt về
nước đầu tư và đem kiến thức khoa học, kỹ thuật về giúp đảng phát triển kinh
tế. Theo KL-12
“cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đến nay có khoảng 5,3 triệu người
sinh sống, làm việc trên 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó, hơn 80% là ở
các nước phát triển.”
Nhưng số vốn đầu tư của Việt kiều vào Việt Nam không nhiều,
trong khi số chuyện gia về giúp nước lại càng ít và không thường xuyên.
Theo Cục đầu tư nước ngoài (Bộ
Kế hoạch và Đầu tư) thì :”Tính đến tháng 11/2020 người Việt Nam ở nước ngoài
đã có 362 dự án đầu tư theo hình thức ĐTNN tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký
1,6 tỷ USD từ 27 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó dẫn đầu về số dự án là từ
kiều bào Hoa Kỳ, tiếp theo là Pháp, Australia, Trung Quốc và CHLB Đức. Phần lớn
các dự án đầu tư của kiều bào tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế
tạo với 143 dự án, vốn đăng ký 725,14 triệu USD, chiếm 39,5% số dự án và
45,2% vốn đăng ký. Các nhà đầu tư Việt Kiều đã đầu tư vào 42/63 địa phương
trong cả nước, trong đó dẫn đầu là Hà Nội với 79 dự án, vốn đăng ký 476,8 triệu
USD (chiếm 21,8% số dự án và 29,7% vốn đăng ký), tiếp theo là các địa phương
Long An, Bình Thuận, Hải Phòng, Đồng Nai và các địa phương khác. Các dự án ĐTNN
của kiều bào hoạt động khá hiệu quả, đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế
xã hội của các địa phương.”
VẪN NHẠT NHÒA
Tuy vậy, vẫn không có nhiều đầu
tư của người Việt ở nước ngoài vào Việt Nam. Số chuyên gia vế giúp nước càng
khiêm tốn hơn.
Tình trạng này đã được Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước
ngoài Mai Phan Dũng nói với phóng
viên báo Báo Điện tử Chính phủ ngày 9/2/2023.
Ông Dũng nói:”Điển hình chỉ riêng cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ
đã có hơn 150 giáo sư, tiến sĩ có tên tuổi, khoảng 200 kỹ sư gốc Việt hoạt động
trong lĩnh vực khoa học vũ trụ, cùng nhiều chuyên gia làm việc trong các ngành
khoa học khác.
Số lượng trí
thức, chuyên gia, nhà khoa học NVNONN về nước nói chung và hoạt động trong đổi
mới sáng tạo còn khiêm tốn, khi chỉ đạt con số chưa đến 0,1% trong tổng số gần
600.000 trí thức NVNONN.”
“Bên cạnh đó”, ông Dũng còn
tiết lộ, “việc kết nối giữa kiều bào tiềm năng, có nhu cầu về nước cống hiến
và phát triển sự nghiệp, với các bộ ngành, địa phương, các trường đại học, viện
nghiên cứu còn khó khăn do thiếu thông tin, hạn chế về cơ chế, ngân sách, cơ sở
vật chất, chế độ đãi ngộ, xử lý và phản hồi đối với các ý kiến của chuyên gia,
trí thức kiều bào…”
Vì vậy ông Mai
Phan Dũng đã kiến nghị Chính phủ:”Công tác thu hút nguồn lực chuyên
gia, trí thức kiều bào hỗ trợ công cuộc đổi mới sáng tạo cần củng cố về nhiều
mặt.
Ông nói:”Trước hết là cần thống nhất
nhận thức của toàn bộ hệ thống chính trị về chủ trương, chính sách nhất quán
của Đảng, Nhà nước về củng cố vững chắc khối đại đoàn kết dân tộc, trong đó có
vai trò của cộng đồng NVNONN…Tiếp đến, cần tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất
lượng, hiệu quả triển khai cơ chế, chính sách về thu hút, tuyển chọn, trọng
dụng, đãi ngộ trí thức NVNONN. Trong đó, cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn
cụ thể về thu hút cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ là NVNONN và chuyên
gia nước ngoài tham gia hoạt động khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo tại
Việt Nam…”
Ngoài ra, ông Dũng còn đề nghị:”Rà
soát để bãi bỏ các thủ tục, quy định không cần thiết hoặc gây khó khăn đối với
kiều bào, đặc biệt trong đầu tư, đất đai, thủ tục hành chính, vay vốn, ưu đãi
thuế cho trí thức, doanh nhân NVNONN đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao, các
dự án đào tạo phát triển nguồn nhân lực, các lĩnh vực kinh tế-xã hội ưu tiên…”
DU HỌC SINH
Tuy nhiên không thấy ông Dũng nói gì đến
tình trạng du học sinh, sau khi tốt
nghiệp ở nước ngoài đã không chịu về nước . Cho đến thời điểm năm 2022, đã có
trên 190,000 sinh viên Việt Nam du học ở nước ngoài, phần lớn ở Châu Âu và bắc Mỹ.
Chính phủ Việt Nam không thống kê số sinh
viên “không chịu về nước” sau khi tốt nghiệp, nhưng số này không nhỏ, dù điều
kiện ở lại làm việc không dễ.
Có nhiều lý do, nhưng phần dông du sinh
cho biết họ không muốn trở về vì khó tìm được việc làm đúng khả năng chuyên
môn. Hơn nữa họ còn phái đối phó với tình trạng phe phái và tham nhũng. Vì vậy
trong dân gian mới có các câu vè:
Thứ nhất hậu duệ
Thứ nhì quan hệ
Thứ ba tiền tệ
Thứ tư trí tuệ
hay:
Thứ nhất tiền tệ
Thứ nhì hậu duệ
Thứ ba ngoại lệ
Thứ tư đồ đệ
NGỤY QUÂN-NGỤY QUYỀN
Về phương diện
chính trị, sau 48 năm “bằng mặt nhưng
chưa bằng lòng” giữa đảng CSVN và người Việt sống lưu vong, thứ ngôn ngữ
hàm chứa sự khinh miệt và kỳ thị giữa “kẻ thắng, người thua” vẫn tồn tại trong
đầu lãnh đạo. Vẫn còn thái độ phủ nhận chế độ chính trị ở miền Nam trước năm
1975, mặc dù Bộ sách Lịch sử mới của Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đã
chính thức dùng tên “Chính quyền Việt Nam
Cộng hòa và quân đội Việt Nam cộng hòa thay cho khái niệm ngụy quân -ngụy
quyền” (theo VOV.VN, ngày 30/08/2017.
PGS.TS Nguyễn Đức Nhuệ, Phó Viện trưởng
Viện Sử học (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) nói với phóng viên Đài
tiếng nói Việt Nam (Voice of Vietnam,VOV) :” Trước
đây, trong một số tài liệu và công trình nghiên cứu thường dùng khái niệm ngụy
quân, ngụy quyền để chỉ chính quyền Việt Nam cộng hòa hay quân đội Việt Nam
cộng hòa ở miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, đến nay, trong giới sử học cho rằng,
khái niệm đó không hoàn toàn chính xác khi chỉ về một chế độ chính trị đã từng
tồn tại trong lịch sử.”
Thế nhưng, trong bài viết “Không thể “đánh bùn sang ao”, phủ nhận lịch sử” trong
Nguyệt san Sự kiện và Nhân chứng của báo Quân đội Nhân dân, tác giả Lữ Ngàn đã
đổi trắng thay đen với lập luận:”Theo từ điển tiếng Việt: “Ngụy” là
từ chỉ sự vật, sự việc mang tính giả tạo, bất hợp pháp, không chính thống,
không được công nhận. Như vậy, “ngụy quân”, “ngụy quyền” là để chỉ đội quân,
chính quyền không hợp pháp, không chính thống, không được công nhận. Ngụy quyền
Sài Gòn trước năm 1975 là chính quyền tay sai do Mỹ dựng lên. Họ lập ra đội
quân công cụ bạo lực của chính quyền tay sai ấy để thực hiện mưu đồ xâm lược
nước ta, biến miền Nam nước ta thành thuộc địa.”
Sự thật ai cũng biết, Việt Nam Cộng hòa
là một thực thể chính trị hợp pháp được nhiều nước trên thế giới công nhận. Và
VNCH chưa bao giờ là “thuộc địa” của Hoa Kỳ như xuyên tạc của CSVN.
Vì vậy, càng không chính xác khi bài báo ngụy
biện rằng:”Đằng sau những luận điểm ngụy tạo, đòi bỏ cách gọi “ngụy quân”,
“ngụy quyền”, thực chất là kiểu đánh tráo khái niệm, pha loãng, xét lại, phủ
nhận lịch sử, biến cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc vĩ đại của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta thành cuộc “nội chiến”, “huynh đệ tương tàn”.”
Nhưng nếu miền Bắc không xua quân xâm
lược miền Nam thì làm gì có cuộc chiến huynh đệ tương tàn suốt 20 năm
(1955-1975) giữa người Việt với nhau; làm gì có trên 5,000 thường dân đã bị thảm sát ở Huế trong cuộc tấn công Mậu
Thân 1968 của quân Cộng sản ?
Cũng như thế, lịch sử sẽ làm rõ: Bên nào
đã gây ra thảm cảnh ngày 30/4/1975 để bây giờ, nửa Thế kỷ sau, vết thương dân
tộc vẫn chưa lành ? -/-
Phạm Trần
(02/023)
No comments:
Post a Comment