Binh pháp trường kỳ cho Đài Loan: Tại sao giải pháp tốt nhất là không có giải pháp (Phần cuối)
Tác giả: Jude Blanchette & Ryan Hass
Đỗ Kim Thêm dịch
Số tháng 1/tháng 2-2023
27/02/2023
Tiengdan
Tiếp theo phần 1 và phần 2
Bảo toàn lực lượng
Ngay cả khi ông Tập chưa xét đến việc thống nhất bằng vũ lực, Mỹ vẫn phải thể hiện việc chắc chắn khả năng của mình trong việc bảo vệ lợi ích ở eo biển Đài Loan. Trong khi đó, các quyết định quân sự không được phép xác định phương sách tổng thể của Hoa Kỳ, như giới phân tích và hoạch định chính sách đang tích cực đề xuất rằng họ nên làm như vậy.
Thực tế không thể tránh khỏi là, không có việc gia tăng sức mạnh quân sự nào của Mỹ có thể triển khai trong năm năm tới sẽ làm thay đổi cơ bản cán cân quân sự. Hoa Kỳ phải dựa vào nghệ thuật lãnh đạo đất nước và một loạt các công cụ rộng lớn hơn để xác minh với Bắc Kinh về cái giá quá đắc trong việc sử dụng vũ lực để bắt buộc thống nhất.
Mục tiêu tối hậu của một chính sách Đài Loan bền vững nên là, giữ gìn hòa bình và ổn định, tập trung vào việc kéo dài triển vọng về thời gian của Bắc Kinh để họ coi việc thống nhất như là một kịch bản cho “một ngày nào đó”. Hoa Kỳ đặc biệt phải tránh đẩy Tập vào chân tường, ngăn chặn tình huống mà ông ta không còn coi Đài Loan là một mục tiêu dài hạn, mà là một cuộc khủng hoảng sắp xảy ra. Phương cách khác biệt này sẽ kéo theo một sự thay đổi khó chịu trong tư duy đối với giới phân tích và hoạch định chính sách, họ coi Mỹ và Trung Quốc đang bị mắc kẹt trong một cuộc hạ màn trình diễn không thể tránh khỏi và coi bất kỳ sự nhạy cảm nào của Bắc Kinh như là một nhượng bộ nguy hiểm.
Điều này không có nghĩa là mục tiêu trong chính sách của Mỹ nên tránh chọc giận Bắc Kinh. Không có bằng chứng nào cho thấy sự hỗ trợ của Hoa Kỳ cho Đài Loan bị giảm sút sẽ làm giảm sự nôn nóng của Trung Quốc trong việc thu tóm hòn đảo này, vốn là yếu tố quan trọng trong chuyện thành lập của ĐCSTQ. Nhưng thực tế này có nghĩa là, Hoa Kỳ nên tăng cường sự thịnh vượng, an ninh và khả năng chống trả của Đài Loan theo những cách mà Đài Loan không vô cớ chống lại nước láng giềng hùng mạnh, do một nhà lãnh đạo ngày càng theo tinh thần dân tộc cai trị.
Sự hỗ trợ của Hoa Kỳ nên hướng về việc củng cố năng lực của Đài Loan để chống lại toàn bộ các áp lực mà hòn đảo do Trung Quốc gây ra: Đó là các lĩnh vực không gian mạng, kinh tế, thông tin, ngoại giao và quân sự. Nhưng điều quan trọng là Hoa Kỳ phải kềm chế trong việc từ chối các yêu cầu của Đài Loan trong việc mang lại các biểu tượng về chủ quyền, chẳng hạn như việc đổi tên văn phòng ngoại giao của Đài Loan ở Hoa Kỳ, điều này sẽ làm trầm trọng thêm cho Bắc Kinh mà không cải thiện được tình hình an ninh ở eo biển Đài Loan.
Cũng tương tự như vậy, các phái đoàn quốc hội nên hướng tới việc thúc đẩy các mục tiêu chuyên biệt để bảo đảm rằng các lợi ích có được nhiều hơn chi phí. Hoa Kỳ nên chuyển sự hỗ trợ của mình cho Đài Loan vào các lĩnh vực để giải quyết cụ thể các tình trạng có thể bị tổn thương, chẳng hạn như giúp Đài Loan trong việc đa dạng hóa lưu lượng thương mại, nhận được các hệ thống vũ khí phòng thủ bất đối xứng và dự trữ thực phẩm, nhiên liệu, thuốc men và đạn dược mà họ sẽ cần đến, khi có khủng hoảng.
Đó là một ảo tưởng để an ủi rằng, giải pháp cho các căng thẳng xuyên eo biển chỉ nằm trong việc đơn giản là tăng cường khả năng quân sự của Đài Loan và Hoa Kỳ để Bắc Kinh quyết định rằng, họ phải đứng sang một bên và Đài Loan đi theo con đường riêng của mình. Thật ra, Bắc Kinh sẽ không ngồi yên khi nhìn khả năng phòng thủ của Mỹ và Đài Loan ngày càng mạnh mẽ hơn.
Thật vậy, việc thể hiện sức mạnh hải quân Hoa Kỳ trong cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan 1995-1996 đã gây ra hậu quả không lường đoán là kích động một làn sóng đầu tư mới của QĐGPNDTQ, mà nó đã làm suy yếu sự thống trị của quân đội Hoa Kỳ. Những nỗ lực hiện tại của Đài Bắc hoặc Washington nhằm chuẩn bị cho xung đột quân sự sẽ giải thích phản ứng có thể dự đoán được của QĐGPNDTQ.
Bất kỳ phương sách nào để duy trì hòa bình ở eo biển Đài Loan phải bắt đầu bằng việc am hiểu về vấn đề Đài Loan liên hệ sâu đậm đến chính trị như thế nào đối với Trung Quốc. Đáng chú ý là, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan 1995-1996 và sự gia tăng các căng thẳng gần đây liên quan đến chuyến công du Đài Loan của Pelosi được thúc đẩy bởi các vấn đề có thể nhận ra được về tầm mức quan trọng trong chính trị, không phải bởi việc Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan hoặc nỗ lực hỗ trợ cho Đài Bắc trong các tổ chức quốc tế hoặc các sáng kiến nhằm tăng cường quan hệ kinh tế song phương. Bài học rút ra là, Mỹ có nhiều cơ hội hơn để ủng hộ cụ thể cho Đài Loan khi họ tập trung vào thực chất hơn là công khai làm suy yếu các tuyên truyền trong nước của Bắc Kinh là Trung Quốc đang đạt được tiến bộ hướng tới việc thống nhất. Chính quyền Trung Quốc chắc chắn sẽ than phiền về những nỗ lực thầm lặng hơn, chẳng hạn như mở rộng các cuộc đối thoại quốc phòng giữa Hoa Kỳ và Đài Loan, nhưng những điều này vẫn dưới mức gây ra bối rối công khai cho Bắc Kinh.
Theo đó, các hành động của Mỹ nên vừa ủng hộ Đài Loan một cách có ý nghĩa và vừa tạo cho ông Tập một phạm vi ở trong nước để tuyên bố rằng cuối cùng con đường thống nhất vẫn còn rộng mở. Các ví dụ về những nỗ lực như vậy bao gồm đào sâu phối hợp giữa Hoa Kỳ và Đài Loan về khả năng phục hồi chuỗi cung ứng, đa dạng hóa thương mại của Đài Loan thông qua đàm phán thỏa thuận thương mại song phương, tăng cường phối hợp y tế công cộng, cung cấp nhiều vũ khí phòng thủ bất đối xứng hơn cho Đài Loan và tập hợp các nguồn lực để tăng tốc đổi mới các công nghệ mới nổi như điện toán lượng tử và ứng dụng trí tuệ nhân tạo. Tất cả những nỗ lực như vậy sẽ tăng cường năng lực của Đài Loan trong việc cung cấp y tế, sự an toàn và thịnh vượng của người dân mà không công khai thách thức tuyên truyền của Bắc Kinh về sự thống nhất cuối cùng.
Ngoài ra, Hoa Kỳ phải ủng hộ chính sách với một vị thế quân sự đáng tin cậy ở Ấn Độ-Thái Bình Dương, chú trọng nhiều hơn vào các hệ thống vũ khí nhỏ, phân tán trong khu vực và đầu tư lớn hơn vào các hệ thống tên lửa chống bề mặt và chống hạm tầm xa. Những đầu tư như vậy có thể củng cố khả năng của Hoa Kỳ trong việc từ chối các cơ hội của Trung Quốc để bảo đảm lợi ích quân sự nhanh chóng đối với Đài Loan. Và nếu Mỹ gửi vũ khí một cách kín đáo, điều đó sẽ khiến Bắc Kinh thất vọng nhưng để cho Trung Quốc ít có cơ hội biện minh về việc sử dụng vũ lực như một phản ứng thích hợp. Nói cách khác, Hoa Kỳ nên làm nhiều hơn và nói ít hơn.
Hoa Kỳ cũng nên chống lại việc xem vấn đề Đài Loan như một cuộc cạnh tranh giữa chủ nghĩa độc tài và dân chủ, như một số quan chức ở Đài Bắc đã thúc giục. Một khuôn khổ như vậy là điều dễ hiểu, đặc biệt sau cuộc xâm lược thảm khốc của Nga ở Ukraine. Sẽ dễ dàng hơn để thuyết phục người Mỹ về giá trị của một Đài Loan an toàn và thịnh vượng khi đối chiếu các tương phản về bản sắc dân chủ tự do của Đài Loan với sự tuột dốc về chuyên quyền ngày càng tệ hại của Bắc Kinh.
Tuy nhiên, khảo hướng này chẩn đoán sai vấn đề. Thách thức ngày càng gia tăng đối với việc duy trì hòa bình ở eo biển Đài Loan không bắt nguồn từ bản chất của hệ thống chính trị Trung Quốc, một hệ thống vốn luôn theo chủ thuyết Lenin hoàn toàn không có tự do và không có thoả hiệp, hệ thống này lại có khả năng dự phóng về quyền lực ngày càng tăng, biết kết hợp với việc củng cố quyền lực xung quanh ông Tập.
Có lẽ đáng lo ngại hơn là khảo hướng này khoá chặt Washington vào bên trong. Nếu Hoa Kỳ tô vẽ các mối quan hệ xuyên eo biển bằng các đường lối ý thức hệ tươi sáng, điều đó sẽ cản trở giới hoạch định chính sách Hoa Kỳ, tạo ra các lựa chọn mang sắc thái không rõ ràng. Như Thomas Schelling, nhà lý thuyết về trò chơi người Mỹ, đã chứng minh, việc ngăn chặn kẻ thù đòi hỏi sự pha trộn giữa các mối đe dọa đáng tin cậy và sự bảo đảm đáng tin cậy.
Sự bảo đảm đòi hỏi phải thuyết phục Bắc Kinh rằng, nếu Bắc Kinh kềm chế việc sử dụng vũ lực, thì Hoa Kỳ sẽ trì hoãn việc ủng hộ nền độc lập của Đài Loan. Khi chính sách của Hoa Kỳ về Đài Loan thâm nhập với ý thức hệ, uy tín của các bảo đảm của Mỹ giảm đi và sự sẵn sàng của Hoa Kỳ trong việc cung cấp sự bảo đảm cho Trung Quốc trở nên bị cấm đoán. Xem xét các mối quan tâm của Bắc Kinh có thể không phù hợp với tinh thần theo thời đại của phe diều hâu ở Washington, nhưng kiểu đồng cảm về chiến lược này là bắt buộc để dự đoán về cách tính toán và quyết định của đối thủ.
Đóng khung các căng thẳng như là một cuộc đấu tranh ý thức hệ cũng có nguy cơ đẩy Trung Quốc vào chân tường, bởi vì tình trạng này nuôi dưỡng những lo âu của Bắc Kinh là Hoa Kỳ sẽ chống đối thương trực bất kỳ loại giải pháp nào cho vấn đề Đài Loan. Điều này có thể khiến Bắc Kinh kết luận rằng, lựa chọn duy nhất của họ là khai thác sức mạnh quân sự để vượt qua sự chống đối của Hoa Kỳ và buộc Đài Loan phải khuất phục, ngay cả với một cái giá quá cao về kinh tế và chính trị. Bất kỳ nhà lãnh đạo Trung Quốc nào cũng sẽ coi việc Đài Loan thoát khỏi sự chiếm lấy của Trung Quốc là một mất mát sống còn. Bình luận của Biden vào tháng chín năm 2022 là Hoa Kỳ sẽ đứng ra bảo vệ Đài Loan nếu Trung Quốc tiến hành một “cuộc tấn công chưa từng có” đã một lần nữa làm gay gắt thêm cuộc tranh luận về việc liệu chính sách của Hoa Kỳ có đang chuyển sang việc trình bày rõ ràng hơn về thời điểm và cách thức mà Hoa Kỳ sẽ can thiệp, nhân danh cho Đài Loan không.
Tuy nhiên, cuộc tranh luận về “sự minh bạch trong chiến lược” là một sự phân tâm. Một mặt, quân đội Trung Quốc vốn dĩ cho rằng Hoa Kỳ sẽ can thiệp nếu Trung Quốc tiến hành một cuộc xâm lược toàn diện, vì vậy từ quan điểm của Bắc Kinh, sự tham gia của Hoa Kỳ đã được đưa vào các kế hoạch quân sự. Hơn nữa, trong trường hợp không có hiệp ước phòng thủ hỗ tương giữa Hoa Kỳ và Đài Loan, vốn không được đặt ra, nên không có yêu cầu ràng buộc nào đối với Washington để can thiệp, ngay cả khi một tổng thống đã đề xuất rằng nên làm như vậy.
Hơn nữa, một cuộc xâm lược hoàn toàn và vô cớ của QĐGPNDTQ là kịch bản ít có khả năng xảy ra nhất mà Hoa Kỳ sẽ gặp phải, và do đó, cách mà Hoa Kỳ phản ứng với sự xâm lược của Bắc Kinh chắc chắn sẽ phụ thuộc vào các hoàn cảnh cụ thể về một cuộc tấn công của Trung Quốc. Theo nghĩa này, chính ý tưởng “sự rõ ràng trong chiến lược” là “rõ ràng” là một huyền thoại.
Làm sinh động lại một cuộc tranh luận kéo dài hàng thập niên qua về sự rõ ràng trong chiến lược là quan trọng hơn việc tập trung vào cách mà chính sách “một Trung Quốc” của Hoa Kỳ nên được điều chỉnh để đáp ứng những thách thức mới và cấp bách do một Trung Quốc hùng mạnh và hung hăng hơn gây ra. Chỉ đơn giản xác định rằng, chính sách của Hoa Kỳ đã không thay đổi, như khi Nhà Trắng hành động theo sau những lời phát biểu của Biden, nó trở nên trống rỗng đối với Bắc Kinh và bất kỳ nhà quan sát trung thực nào về chính sách của Hoa Kỳ trong sáu năm qua.
Hành động quân bình
Thay vì duy trì việc hư cấu về sự bất biến, Hoa Kỳ nên nói sự thật: Các quyết định của họ được dựa trên quyết tâm giữ hòa bình cho eo biển Đài Loan, và nếu Bắc Kinh gia tăng áp lực đối với Đài Bắc, Washington sẽ điều chỉnh lập trường của mình cho phù hợp. Và Hoa Kỳ nên cam kết rằng sẽ làm điều tương tự nếu Đài Loan theo đuổi các biện pháp biểu tượng làm suy yếu các tình trạng xuyên eo biển. Khảo hướng như vậy sẽ nhận ra rằng, hiện trạng ở eo biển Đài Loan là năng động, không cố định. Nó sẽ công nhận quyền tự do quyết định của Bắc Kinh trong việc duy trì hoặc phá hoại hòa bình. Washington nên xác minh rằng, nếu Bắc Kinh hoặc Đài Bắc làm đảo lộn sự ổn định ở eo biển, họ sẽ tìm cách thiết lập lại tình cân bằng. Nhưng để có phương cách vận hành hiệu quả như vậy, các hành động và ý định của Hoa Kỳ phải rõ ràng, và cam kết của họ đối với tình trạng cân bằng này phải được đáng tin cậy.
Hoa Kỳ cần kiên quyết và nhất quán trong việc tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ chấp nhận bất kỳ giải pháp nào đối với các căng thẳng xuyên eo biển đang đạt được một cách hòa bình và phù hợp với quan điểm của người dân Đài Loan. Nếu ông Tập muốn tìm một con đường hòa bình để thống nhất, điều mà ông và các nhà lãnh đạo Trung Quốc khác vẫn nhấn mạnh là chọn lựa ưu tiên của họ, thì ông phải trình bày phương án này cho công chúng Đài Loan. Sự thật là việc hòa giải như vậy có thể không đến trong nhiều thập niên, nếu có.
Nhưng dù sao cũng đáng để theo đuổi một nền hòa bình mà nó cho phép Đài Loan phát triển và thịnh vượng trong một môi trường khu vực ổn định, ngay cả khi mục tiêu như vậy không có ý nghĩ chung quyết mà giới phân tích và hoạch định chính sách Mỹ mong đợi.
Sau nửa thập niên suy vi, mối quan hệ Mỹ-Trung đứng trước bờ vực khủng hoảng. Xung đột song phương đã chuyển từ thương mại sang công nghệ và hiện nay, đến mối đe dọa đối đầu quân sự trực tiếp. Điều chắc chắn là các mối đe dọa của Bắc Kinh đối với Đài Loan là nguyên nhân chính của các mối căng thẳng qua eo biển. Nhưng thực tế thẳng thừng này chỉ nhằm làm nổi bật tầm quan trọng của việc Hoa Kỳ hành động với việc tiên đoán, quyết tâm và khéo léo.
Một cuộc đối đầu trực tiếp giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ tàn phá nhiều thế hệ. Thành công sẽ được đo lường hằng ngày mà người dân Đài Loan tiếp tục sống trong sự an toàn và thịnh vượng và được hưởng quyền tự chủ chính trị.
Các mục tiêu cơ bản trong các nỗ lực của Mỹ phải là giữ gìn hòa bình và ổn định, củng cố niềm tin của Đài Loan vào tương lai và chứng minh một cách đáng tin cậy với Bắc Kinh rằng bây giờ không phải là lúc để bắt buộc một cuộc đối đầu đầy bạo lực.
Để đạt được những mục tiêu này đòi hỏi phải kéo dài thời gian, không đưa lên hàng đầu một thách thức khó giải quyết. Nghệ thuật lãnh đạo nhà nước khôn ngoan, hơn cả sức mạnh quân sự, đem lại con đường tốt nhất dẫn đến hòa bình và ổn định ở eo biển Đài Loan.
_______
Tác giả: Jude Blanchette là Trưởng Ban Nghiên cứu về Trung Quốc tại Center for Strategic and International Studies), tác giả cuốn sách China’s New Red Guards: The Return of Radicalism and the Rebirth of Mao Zedong.
Ryan Hass là Thành viên cao cấp, Trưởng Ban Nghiên cứu về Đài Loan và Chính sách Đối ngoại tại Viện Brookings. Từ năm 2013 đến 2017, ông là Giám đốc Nghiên cứu về Trung Quốc, Đài Loan và Mông Cổ tại Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ (U.S. National Security Council).
No comments:
Post a Comment