Sunday, December 7, 2025

VNTB – Từ “nỗi buồn chiến tranh” đến niềm đau hoà bình
Facebook Nguyễn Thanh Huy
08.12.2025 4:09
VNThoibao


(VNTB) – Lẽ ra, đất nước thống nhất đã 50 năm, những định kiến, những ấu trĩ từ quá khứ nên xếp lại, hướng tới một tương lai cởi mở, khai phóng để tiếp thu những giá trị đa chiều, khác biệt.

 Dân tộc ta là một dân tộc không may mắn. Suốt mấy nghìn năm, từ buổi bình minh dựng nước đến các triều đại giữ nước, cộng đồng Việt phải đương đầu với thiên tai thảm khốc hàng năm, và chống lại các thế lực ngoại xâm hung bạo qua nhiều thời kỳ lịch sử.

 Nếu thiên tai là điều chúng ta không thể tránh, thì chiến tranh cũng chưa bao giờ là sự lựa chọn. Điều không may, dân tộc ta lại không có quyền chọn nước láng giềng nên phải kinh qua nhiều cuộc binh đao, và những xui khiến của lịch sử đã tạo nên những bước ngoặt đưa dân tộc đến những năm trường lửa khói.

 Tất thảy là điều không may mắn, nói đúng hơn là sự bất hạnh của dân tộc. Chúng ta có thể tự hào về chiến thắng nhưng đừng nên tự hào về chiến tranh. Bởi chiến tranh là tàn khốc, là mất mát, đau thương; là vợ khóc chồng, con khóc cha, và là những nỗi đau khôn nguôi của mẹ già. Chúng ta tự hào chiến thắng, vì lẽ chúng ta còn tồn tại. Đó là một đòi hỏi sinh tồn giữa sự sống và cái chết. Cho nên, niềm tự hào ấy là dĩ nhiên, nhưng chỉ nên dừng lại ở đó.

 Có lẽ, vì phải trải qua quá nhiều đau thương nên người Việt luôn sống mãi trong niềm tự hào chiến thắng ấy chăng?

 Trong bất kì một cuộc chiến nào, để giành chiến thắng, không chỉ phụ thuộc vào sức mạnh của lực lượng vật chất, mà còn quyết định bởi sức mạnh tinh thần. Đó là lí do vì sao những nhà cầm quân luôn biết cổ vũ, uý lạo tinh thần để binh sĩ sẵn sàng xông lên cảm tử…

 Trong chiến tranh hiện đại, người ta càng ý thức rõ phương diện này. Từ đó, báo chí và văn nghệ trở thành những phương tiện tác chiến hữu hiệu. Và theo đó, rõ ràng, Văn học Cách mạng Việt Nam đã làm tốt nhiệm vụ này. Nên suốt một thời gian dài, người đọc, người học chỉ thấy được những hình ảnh hào hùng, đẹp đẽ, cao thượng. Nếu có buồn cũng phải là bi tráng; nếu có lãng mạn, tự tình cũng không được vượt khuôn thước của một người lính can đảm, dám hy sinh quên mình. Lâu dần những hình ảnh đó như đã hằn sâu trong nếp nghĩ. Và nó là một phần kí ức để họ có thể tự hào một cách thái quá đến vô thức.

 Nhưng người ta không biết rằng, sự thật trần trụi của chiến tranh đâu chỉ là những trang sử anh hùng; đằng sau nó là những nỗi đau, sự mất mát, và cả những chấn thương tâm lí vĩnh viễn không bao giờ lành lại. Tuy nhiên, sự thật ấy, văn chương Cách mạng Việt Nam trước 1975 không thể nói, đúng hơn, không dám nói. Và rồi, những năm 1980, đất nước bước vào thời kì đổi mới, tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” ra đời như một tất yếu, đó cũng là bổn phận của văn chương và sứ mệnh của người cầm bút.

 Trải qua bao thăng trầm trước những định kiến và quan niệm cổ hủ của nhiều tầng lớp, nhưng cuối cùng tác phẩm đã dần được chấp nhận; nó không chỉ đến với giới yêu văn chương, mà còn được đưa vào dạy trong chương trình Ngữ văn THPT. Và mới đây, một lần nữa nó được khẳng định khi Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp vào danh sách 50 tác phẩm văn học – nghệ thuật tiêu biểu thời kỳ sau thống nhất.

 Đó chính là sức sống tự thân của một tác phẩm. Nghệ thuật có tồn tại hay không, phải được kiểm nghiệm bởi thời gian; không phải bằng ý chí chính trị. Tác phẩm nghệ thuật vốn có đời sống riêng của nó, và nó đến với người đọc, ở lại trong họ bằng con đường của chính nó. Ở đây, tạm gác lại câu chuyện nội dung của “Nỗi buồn chiến tranh”, thì chắc chắn về phương diện nghệ thuật, nó phải đặc sắc, ấn tượng, vượt trội mới có thể lọt qua được những đôi mắt phê bình, cảm thụ tinh tường. Mà với tác phẩm văn chương, nghệ thuật là yếu tố quyết định. Nghe điều này, những người “ngoại đạo” có lẽ khó chấp nhận. Xin nhắc lại, nếu “Truyện Kiều” của Nguyễn Du được xem là kiệt tác mà xét dựa trên nội dung, thì đó là phần giá trị của “Kim Vân Kiều truyện”của Thanh Tâm Tài Nhân. Điều này cho thấy tài hoa, sự sáng tạo của Nguyễn Du về mặt nghệ thuật có ý nghĩa quyết định đối với tác phẩm. Thế nên, Thi pháp học cho rằng “hình thức chính là nội dung” là hoàn toàn xác đáng.

 Vậy, nội dung của “Nỗi buồn chiến tranh” có gì “sai” mà khiến một bộ phận lên án, bài bác gay gắt?

 Có lẽ, cái sai của nó trong mắt họ là vì nó không theo lối mòn — ngợi ca cái chất anh hùng của người lính; không nói về chiến công; đồng thời cũng không hô hào về quá khứ. Đã thế, nó còn nói về những nỗi khổ đau, những tâm tư rất đời thường của một con người bằng xương bằng thịt. Tất cả những điều này mang lại cho người ta một cảm giác khó chịu, như một người đang ưa ngọt mà phải nuốt vị đắng vậy.

 Nhưng vấn đề không chỉ ở họ bị nghe nhiều thành quen, mà còn ở chỗ họ đang tự dối chính mình. Họ cố quên rằng một con người phải luôn có những xúc cảm bản năng, những hỷ – nộ – ái – ố rất đỗi bình thường. Phần lý tưởng cao đẹp kia đôi lúc dâng trào, lấn ép, chứ nó không thể thay thế cho tâm hồn và cảm xúc con người. Hơn nữa, họ cũng không biết rằng một người lính sẽ đẹp hơn khi ở anh ta giàu lòng trắc ẩn, có những cảm xúc yêu đương đôi lứa, mà vẫn là người kiên trung, bất khuất. Đó mới là một người lính đúng với phẩm cách con người, nếu không chỉ là những người lính vô cảm — chỉ biết bắn và giết — mà thôi!

 Sự ghi nhận cho tác phẩm “Nỗi buồn chiến tranh” lẽ ra là một niềm vui cho người cầm bút, và xa hơn, cho xã hội — khi chúng ta đã dám cởi mở nhìn nhận, khi nhận thức xã hội được cởi trói, nâng lên theo kịp với xu thế thời đại. Thế nhưng, niềm vui ấy chẳng tày gang! Ngay lập tức một làn sóng công kích, phản đối dữ dội, mà khơi mào bởi một ông tướng đã về hưu. Từ đó xã hội lại một lần nữa phân hoá, chia rẽ. Đây rõ ràng là một niềm đau, một nỗi buồn trong thời bình. Lẽ ra, đất nước thống nhất đã 50 năm, những định kiến, những ấu trĩ từ quá khứ nên xếp lại, hướng tới một tương lai cởi mở, khai phóng để tiếp thu những giá trị đa chiều, khác biệt. Chúng ta luôn hô hào hoà giải dân tộc giữa hai chiến tuyến, mà ngay cả tác phẩm của một người lính (bên thắng cuộc) với cái nhìn chân thật về quá khứ cũng không chấp nhận, lại còn khoét sâu thêm một mâu thuẫn khác.

 Điều hết sức lạ lùng, sự ghi nhận tác phẩm và vinh danh tác giả là của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch — một tổ chức quan trọng của Nhà nước. Vậy cớ làm sao một lực lượng cũng của Nhà nước lại công kích, thoá mạ, chà đạp?

 Vậy, thì còn mong gì ở hoà hợp, hoà giải dân tộc được thực hiện bởi hành động?

 Với ông tướng về hưu ấy, chúng ta có thể dễ hiểu và cảm thông, vì ông là người của thế hệ trước. Điều không thể lí giải nổi là tại sao một lớp người trẻ, một lớp người có nhận thức lại đi làm cái công việc chửi rủa bất kể ai bằng bất cứ ngôn từ xấu xí nào một cách vô thức.

 Tôi cũng không hiểu vì sao trong thời đại này mà người ta còn phải dùng đến lực lượng ấy, vừa tốn kém vừa vô tác dụng. Vì chỉ cần nhìn thấy những ngôn từ tục tĩu, những cách nói vô học thì ai ai cũng nhận ra, đâu còn giá trị tuyên truyền. Sử dụng họ vừa tốn kém vừa khiến không gian mạng người Việt càng thêm xấu xí, tệ hại trong mắt cộng đồng quốc tế. Về lâu dài, chính nó sẽ phá nát văn hoá ứng xử, và làm hỏng nhân cách trẻ vị thành niên.

 Có thể nói, chừng nào một xã hội chưa dám đối diện với nỗi buồn chiến tranh, thì cộng đồng ấy chưa thể nhìn thấy sự thật; và chừng nào một chính thể chưa xoá đi những hận thù trong quá khứ, mà lại tiếp tục chia rẽ ngay hiện tại, thì niềm vui hoà hợp chắc còn ở tương lai xa xăm.

__________________

Nguồn:

https://www.facebook.com/share/p/1GhEfQDoop/?mibextid=wwXIfr

No comments:

Post a Comment