Friday, August 1, 2025

Lão Tạ “Quốc Dân Đảng”
Nguyễn Thọ
1-8-2025
Tiengdan

Nhà tôi ở Cologne (Köln) cách Troisdorf 30 phút xe hơi. Đô thị nhỏ 75.000 dân này lại có những lò chế tạo vũ khí, cơ khí truyền thống như Dynamit Nobel, Degusa, Mannsteadt… nên rất trù phú.

Mỗi lần có bạn bè ở Việt Nam sang, tôi hay dẫn đến đó thăm khu lưu niệm ông Rupert Neudeck, người sáng lập tổ chức Cap-Anamur, người đã cứu vớt hơn 11.000 người Việt tỵ nạn trên Biển Đông rồi đưa về Đức. Một chiếc thuyền gỗ của “Boat people” được tàu Cap Anamur vớt lên cũng được trưng bày ở đó. Ông bà Neudeck còn giúp một số thuyền nhân về định cư ở Troisdorf.

Trong số những người may mắn đó có lão Tạ, gốc Bạc Liêu nên gọi là Tạ Bạc Liêu. Trước 1975, công tử Bạc Liêu đi lính trong Không lực VNCH. Lương bổng khá, cuộc sống ổn định. Đùng một cái, 30 tháng 4, mọi thứ mất hết. Rồi cuộc đời bầm dập của “lính ngụy”. Vượt biên gặp tàu Cap Anamur nên thoát chết.

Nước Đức lúc đó rất hào phóng với những người vượt tuyến từ bên kia bức tường sắt. Tạ được cấp ngay quy chế tỵ nạn, được phân chỗ ở, hưởng tiền trợ cấp. Hàng ngày có xe đón đưa đi học tiếng [Đức], rồi học đại học. Ra trường được làm việc trong hãng Đức, lương bổng hậu hĩnh. Có tiền mua nhà, sắm xe, con cái học hành thành đạt. Công tử sang đến Đức còn Bạc Liêu hơn cả thời mặc áo lính ở Sài Gòn.

Họ Tạ xấp xỉ tuổi tôi, con trai gã chơi với con trai tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau tán dóc. Tuy khác nhau về xuất xứ, về “quá trình cách mạng”, nhưng chúng tôi chia sẻ được với nhau khá nhiều chuyện. Có một điều, gã hơn hẳn tôi là được kết nạp… vào Đảng. Gã tự hào là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ).

Hồi trẻ tôi được học về Nguyễn Thái Học, về “Khởi nghĩa Yên Bái”. Sau này tôi biết thêm về “Cây đào Tô Hiệu”. Ông Tô Hiệu bị bắt năm 1930 vì tham gia Quốc Dân Đảng. Trong tù ông kết bạn với những người cộng sản và sau đó gia nhập Đảng Cộng Sản Đông Dương. Giờ lão Tạ nói rằng, VNQDĐ là đảng chính trị lâu đời nhất Việt Nam, tôi mới té ngửa tìm đọc lại lịch sử.

Quả thật, VNQDĐ được thành lập ngày 25 tháng 12 năm 1927 (có tài liệu nói là 25 tháng 9), tại phố Trúc Bạch (Ngũ Xã) Hà Nội. Ngày 03.02.1930 (có tài liệu từng nói là 06.01) Đảng Cộng Sản Đông Dương mới ra đời tại Hong Kong. Tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương là Tâm Tâm Xã (1923), còn VNQDĐ bắt nguồn từ những ấn phẩm của Nam Đồng Thư Xã (1924).

Vào đầu những năm 1920, công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp bên cạnh việc phát triển giai cấp thợ thuyền, còn tạo ra một tầng lớp trí thức trẻ hiểu biết về dân chủ, nhân quyền và văn hóa Phương Tây. Đồng thời, cách mạng vô sản Nga và cách mạng tư sản dân quyền Trung Quốc ảnh hưởng vào Việt Nam đã nuôi hy vọng giải phóng dân tộc và canh tân đất nước cho lớp trí thức trẻ này. Vì vậy tư tưởng của những trí thức yêu nước Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thái Học, Phạm Hồng Thái, Phó Đức Chính, Đoàn Trần Nghiệp…ban đầu không hề khác nhau.

Các phong trào yêu nước lúc này đã đi xa hơn các cuộc khởi nghĩa chống Pháp trước kia của Hoàng Hoa Thám, Lương Ngọc Quyến hay Đội Cấn trong mục tiêu xây dựng xã hội. Vì vậy mà Wikipedia coi: “Việt Nam Quốc Dân Đảng (chữ Hán: 越南國民黨), là một đảng chính trị dân tộc và xã hội chủ nghĩa dân chủ”.

CNXH Dân chủ khác CNXH Marxist-Leninist thế nào bạn đọc tự tìm hiểu.

VNQDĐ phát triển rất nhanh. Sau vụ ám sát tên thực dân Bazin ngày 09.02.1929 [1] đã có hàng trăm đảng viên bị bắt (có tài liệu viết là gần 1.000). Tuy không có con số chính xác, nhưng quy mô tổ chức cuộc khởi nghĩa Yên Bái tháng 2 năm 1930 trên nhiều thành cho thấy, số đảng viênVNQDĐ trong toàn quốc có thể đã lên đến 2000 người. Đảng Cộng Sản Đông Dương sau 15 năm xây dựng có 5.000 đảng viên, tiến hành Cách mạng Tháng Tám.

Giờ đây cái tên Quốc Dân Đảng dường như đã rơi vào lãng quên. Bản thân lão Tạ trước 1975 cũng chưa biết gì về đảng này. Lão kể là, trước năm 1963, VNQDĐ cũng bị chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp đẫm máu. Khi sang Đức có người họ hàng đến vận động, gã mới gia nhập đảng, đóng đảng phí đều đặn và thường xuyên tham gia các hoạt động.

Tôi hỏi: Để làm gì?

– Chỉ cần để bày tỏ lòng yêu nước của mình cũng đủ.

Rồi lão tặng tôi cuốn sách “Từ Yên-Bái Đến Các Ngục Thất Hỏa-Lò, Côn-Nôn, Guy-An” của tác giả Hoàng Văn Đào, xuất bản tháng 10. 1957 tại Sài Gòn. Năm 2010, nhân kỷ niệm 80 năm “Khởi nghĩa Yên Bái”, sách được tái bản ở Mỹ. Nhưng bìa sách dùng ảnh photocopy bìa nguyên bản năm 1957. Thời đó: Yên Bái viết là Yên Báy, Côn-Lôn = Côn-Nôn. Còn Guy-An là xứ Guyane thuộc Pháp [2]. Cuốn sách nhỏ hơn 100 trang, lời kể mộc mạc bằng văn phong hơi cổ của thế hệ trước đã khiến tôi ngạc nhiên về những điều xưa nay chỉ biết lờ mờ.

Bìa sách “Từ Yên Bái đến các ngục thất Hỏa Lò, Côn Nôn, Guy-An” in năm 1957, được dùng để tái bản năm 2010. Nguồn: Nguyễn Thọ

Người ta nêu nhiều lý do cho thất bại của Khởi nghĩa Yên Bái ngày 09.02.1930. Nào là do phản bội, kế hoạch sơ hở, nào là mấy viên chỉ huy lính khố xanh, khố đỏ do dự vào phút chót, khiến cho [cuộc] nổi dậy tại các địa phương không đồng bộ. Thực ra thì lúc đó vận nước chưa đến. (Xô-Viết Nghệ Tĩnh tháng 5.1930 cũng thất bại).

Khởi nghĩa thất bại, hàng chục lãnh đạo VNQDĐ, gồm cả Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính bị xử tử. Hàng trăm đảng viên khác bị bắt, trong đó có tác giả Hoàng Văn Đào. Tại Hỏa-Lò họ gặp lại những đảng viên bị bắt một năm trước vì vụ ám sát Bazin. Thực ra chỉ có ba người ám sát Bazin, nhưng Pháp không tìm được nên bắt khoảng hơn 400 đảng viên VNQDĐ đang nằm trong sổ đen. Trong toàn quốc con số tù nhân VNQDĐ từ vụ Bazin và vụ khởi nghĩa có thể lên đến nghìn người.

13 chiến sỹ VNQDĐ bị tử hình ngày 17.06.1930 tại Yên Bái. Số 9 là Nguyễn Thái Học. Nguồn ảnh trên mạng/ via Nguyễn Thọ

Ông Đào bị đày ra Côn-Đảo vào tháng 4.1930. Ở đó đang giam giữ hàng trăm tù nhân khác của Đảng Cộng sản, của các phong trào chống Pháp từ các phong trào Cần Vương, Yên Thế, Quang Phục hội. Những người tù chính trị thương yêu đoàn kết với nhau, trước khi đi ngủ đều tổ chức nói chuyện chính tri. Thường có những xung đột ý kiến giữa hai phe, theo chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa Tam Dân [3]. Nhưng tất cả đều tin tưởng ở tương lai Việt Nam độc lập.

Đầu tháng 5.1931 tác giả cùng hơn 200 đồng chí của ông và 335 thường phạm bị đưa đi đày biệt xứ ở Guyane. Sau một tháng rưỡi hành trình trong cái địa ngục trần gian dưới hầm tàu Martinière, hai tù nhân đã bỏ xác trên biển vì bệnh tật và mưa đòn của đám lính châu Phi. Guyane lúc đó là một vùng đất hoang dã, rừng thiêng nước độc. Thổ dân là người Créole lạc hậu (có bộ lạc còn ăn thịt người). Cơ hội vượt ngục gần bằng không. Vì vậy, từ năm 1885 Pháp đã đày tù nhân yêu nước Việt Nam ra đó.

Sau 1975, tôi được đọc nhiều sách Tây mang từ miền Nam ra. Trong đó cuốn Bestseller “Papillon – Người Tù Khổ Sai” [4] của Henri Charrière rất ấn tượng. Ông bị đày ra Guyana năm 1933 và cũng kết bạn với một tù nhân Việt ở đó (hình như gọi là Tuk-Tuk). Sách của Charrière và Hoàng Văn Đào đều giống nhau khi viết về sự dã man của chế độ lao tù Pháp lúc bấy giờ. Tôi không muốn kể hết sự man rợ kiểu trung cổ của thực dân Pháp mới chỉ cách đây 90 năm trong khuôn khổ bài này.

Năm 1945, Pháp thoát khỏi ách Hitler. Paris trả tự do cho tù chính trị ở Guyane. Còn bao nhiêu người sống sót thì không rõ. Người tù chết vô kể vì sự độc ác của thực dân da trắng, của lính da đen rạch mặt, vì cỏ độc, vì dã thú, bệnh dịch và chỉ vì đói, khát. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, những người tù chính trị luôn đùm bọc, yêu thương nhau. Họ còn truyền bá cho người bản xứ những kỹ năng sống mang từ quê nhà sang.

Năm 2010, một đoàn cựu tù nhân VNQDĐ, người già nhất đã 85 tuổi, quay về Guyane để tìm lại mộ và di tích của các đồng chí. Mồ hôi, nước mắt và xương máu của họ đã góp phần xây dựng vùng rừng thiêng nước độc đó thành một xứ phồn vinh như hôm nay.

Sự mến khách và hệ thống lưu trữ tuyệt vời của chính quyền tỉnh hải ngoại Guyane (Pháp) đã giúp đoàn tìm ra hồ sơ những bạn tù cũ và xây dựng bia tưởng niệm liệt sĩ tại các khu nhà lao. Truyền thông địa phương đã phỏng vấn, đưa tin về các bia tưởng niệm này và coi đó là một phần lịch sử của Guyane. Cảm động nhất là khi đoàn đến thăm một làng chài của những người Việt, hậu duệ của bạn tù năm xưa.

Một tấm bia tưởng niệm các nghĩa sỹ=ũ được dựng tại Nhà Lao An-Nam, Guyane hôm 29.01.2010. Nguồn: Nguyễn Thọ
 
Nội dung bia tưởng niệm viết bằng 3 thứ tiếng: Việt, Pháp, Anh, Nguồn: Nguyễn Thọ

Cuốn sách mộc mạc của ông Đào đã giúp tôi nhìn vào một góc khuất trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc. Thế giới biết đến ngục thất Guyane qua “Papillon” của Henri Charrière. Nhiều người Việt đã xem phim này của Hollywood. Nhưng không mấy ai biết về những nấm mộ của các nghĩa sĩ Việt Nam còn nằm lại đó.

Cảm ơn lão Tạ Bạc Liêu.

________

Chú thích:

[1] Các chủ đồn điền Pháp lúc đó rất cần nhân công, nên thuê tên François Bazin tuyển mộ phu. Bazin tham lam và tàn ác, gây nhiều tội ác với công nhân. Mặc dù Nguyễn Thái Học không đồng ý, nhưng ba đảng viên VNQDĐ đã tiến hành tử hình y vào đêm giao thừa Tết Kỷ Tỵ ngày 09.02.1929, trước cửa nhà 110 phố Huế, Hà Nội.

[2] French Guyana ở Nam Mỹ, bên cạnh các thuộc địa Guyana (Anh) và Guyna (Hòa-Lan), Brazil và Venezuela.

[3] Chủ nghĩa Tam Dân do Tôn Trung Sơn, người sáng lâp Trung Hoa Quốc Dân Đảng đề ra. Tam Dân gồm Dân tộc độc lập (民族獨立), Dân quyền tự do (民權自由), Dân sinh hạnh phúc (民生幸福). Chủ nghĩa Tam Dân cũng ảnh hưởng lớn vào nền chính trị Việt Nam và là nguồn gốc của tiêu đề “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” của Nhà nước Việt Nam hiện tại.

[4] Tác phẩm “Papillon” do Henri Charrière viết năm 1969, được dịch ra 21 thứ tiếng, in hàng chục triệu bản. Papillon được Hollywood dựng thành phim năm 1973 và năm 2017 lại dựng lại.

No comments:

Post a Comment