Bước gian truân của TS Eric Henry với “The Memoirs of Pham Duy”, một kết thúc có hậu 20 năm sau
Ngô Thế Vinh
2-11-2024
Tiengdan
“Lịch sử của các nỗ lực của tôi để xuất bản sách The Memoirs of Phạm Duy, giống như lịch sử của chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô – là một đoạn lịch sử vô cùng dài và vô cùng phức tạp. Bắt đầu từ đâu để kể cho rõ rành đây?” [Trích dẫn email của TS Eric Henry, gửi Ngô Thế Vinh ngày 04/05/2022]
MỐI DUYÊN KHỞI ERIC HENRY VÀ TÔI
Lần đầu tiên tôi gặp TS Eric Henry, cách đây 7 năm (2017), và ngạc nhiên khi biết Eric là một cựu chiến binh Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam, nhưng lại rất “ít chất lính”. Khi bước vào lứa tuổi 20, tới hạn quân dịch Eric quyết định đơn giản: Nhập ngũ làm bổn phận một công dân, sau đó trở về đi học lại. Trong thời gian quân ngũ, Eric vẫn rất ham đọc, và đã có được một số hiểu biết về nền văn hóa Đông phương, đặc biệt là Việt Nam và Trung Hoa. Eric có năng khiếu về ngôn ngữ, nói tiếng Việt khá thông thạo và tinh tế.
Từ năm 2000 Eric đã không ngừng tìm hiểu về âm nhạc Việt Nam. Eric cho biết anh mê nhạc Phạm Duy từ lâu. Khoảng năm 2002 trong khi đi thăm một nhà sách Việt Nam, nhà sách Thế Hệ ở Falls Church, Virginia, Eric đã thấy, mua, và đem về nhà, quyển Hồi Ký [I] của Phạm Duy, và đã thấy ngay rằng đây là một tác phẩm có giá trị tối cao đối với bất cứ ai muốn hiểu thêm về Việt Nam trong hai thế kỷ vừa qua, qua các cuộc chiến tranh và những năm tháng hoà bình. Rồi anh đã thích thú đọc hết toàn bộ Hồi Ký 4 tập của Phạm Duy và cả cặm cụi dịch xong bộ sách trong vòng hơn một năm. Bản dịch ấy đã được Cornell University Press* nhận xuất bản từ 2009, bốn năm trước ngày Phạm Duy mất nhưng đến nay cũng đã 15 năm (2009-2024) cuốn sách ấy vẫn còn ở dạng bản thảo.
Tưởng cũng cần nói thêm, Đại Học Cornell có khu Thư viện Đông Nam Á là nơi còn lưu trữ đầy đủ nhất di sản 20 năm Văn học Miền Nam 1954-1975, và cho dù “ngọn lửa phần thư” của những người Cộng sản Việt Nam muốn tận diệt nền văn hóa ấy nhưng ngọn lửa ấy đã không sao lan được tới đây.
ERIC HENRY NĂM NĂM SAU
Năm năm sau lần gặp đầu tiên Eric Henry 2017, khi tôi vào thư mục của Cornell University Press tìm mua bản tiếng Anh bộ Hồi Ký Phạm Duy để tặng một người bạn Mỹ rất quan tâm tới văn hóa Việt Nam, nhưng không thấy, tôi liên lạc ngay với Eric và anh cho biết cuốn sách vẫn chưa xuất bản, với lý do là sau khi Phạm Duy mất, không có di chúc chỉ định quyền thừa kế cho riêng một người con nào, nên cho đến nay, vì chưa có sự đồng thuận của tất cả 7 người con trong gia đình Phạm Duy, nên Cornell University Press chưa thể tiến hành xuất bản bộ Hồi Ký.
DIỄN TIẾN CÁC SỰ KIỆN
Và tiếp theo lần liên lạc đó, tôi đã nhận được một chuỗi emails của TS Eric Henry, kể lại những bước gian truân của anh với bộ Hồi Ký này, và tôi có hứa với Eric sẽ làm những gì có thể làm được trong khả năng để bộ Hồi Ký The Memoirs of Phạm Duy có thể sớm ra mắt.
Bộ Hồi ký 4 tập của Phạm Duy với hơn 1500 trang, qua giọng văn rất bộc trực, Phạm Duy đã ghi lại khá trung thực các giai đoạn hào hùng và thăng trầm của cuộc đời ông và cũng là của đất nước Việt Nam qua hai thế kỷ. Điểm tích cực là qua bốn tập sách ấy, Phạm Duy không hề bêu xấu ai, và cả không che giấu những chi tiết rất riêng tư của mình. Không chỉ là một nhạc sĩ với tài năng lớn – có người gọi ông là thiên tài, qua bộ hồi ký, Phạm Duy còn là một nhà văn, với những trang sách ông viết tràn đầy sức sống và cảm xúc, rất hấp dẫn và cảm động. Với Một Ngàn Lời Ca, Phạm Duy còn là một nhà thơ.
Eric Henry đã gặp nhạc sĩ Phạm Duy như thế nào?
Eric Henry kể: “Cuối mùa hè năm 2003, khi tôi đang đi thăm Little Saigon, gặp nhà báo Đỗ Ngọc Yến, chủ bút tờ báo Người Việt, đã giúp tôi làm quen với gia đình Phạm Duy. Nhưng lần đó Phạm Duy đang đi thăm Việt Nam (2003) chưa về, cho nên tôi chưa có cơ hội gặp ông, nhưng tôi đã làm quen với anh Phạm Duy Hùng, là con thứ ba của nhạc sĩ. Khi gặp nhau ở nhà cha tại Midway City, chúng tôi nói chuyện 2 tiếng đồng hồ về nhạc của người cha, và lần đó tôi cũng được biết là Duy Hùng là người đàn ghi-ta rất giỏi. Anh ấy mời tôi đưa ra nhan đề của bất cứ ca khúc nào của nhóm Beatles, và bảo đảm là anh sẽ trình diễn được trên ghi-ta. Vậy nên tôi đưa ra tên bài “Across the Universe” của John Lennon, và anh Hùng, không chút nào do dự, đã đàn và hát cho tôi nghe bài ấy một cách toàn vẹn lắm – không có âm nào đánh sai”.
Năm tháng sau, tức là tháng Giêng năm 2004, khi tôi đi Cali lần nữa, tôi mới được gặp Phạm Duy lần đầu tiên. Sau đó hai tháng, tôi đã gặp ông một lần nữa, và tôi đã đề nghị với ông bằng một bức thư gửi qua bưu điện, là tôi sẽ dịch bộ Hồi Ký Phạm Duy sang tiếng Anh.
Bức thư là như thế này:
Thư gửi Nhạc sĩ Phạm Duy:
Kèm theo đây là ba chương mở đầu của Hồi Ký [I] dịch sang tiếng Anh – xin mời Ông coi thử. Tôi thấy rằng bốn quyển Hồi Ký của Ông là một tác phẩm có giá trị tối cao đối với bất cứ ai muốn hiểu thêm về Việt Nam trong thế kỷ vừa qua.
Nếu Ông thấy cách phiên dịch của tôi trong mấy chương này chấp nhận được, thì tôi sẽ tiếp tục làm, và sẽ đi tìm một nhà xuất bản để in ra về sau – tôi thấy là sự đồng ý của Ông sẽ giúp tôi nói chuyện với các nhà xuất bản – nhưng nếu Ông không muốn tôi làm công việc này – có lẽ Ông đã có người phiên dịch rồi, chẳng hạn – thì tôi sẽ ngừng tay ngay.
Tôi thấy việc phiên dịch dòng văn của Ông rất thích thú và không khó khăn lắm – nếu mỗi buổi tối tôi dành một tiếng đồng hồ cho công việc này thì trong vòng 3 đến 5 ngày tôi đều dịch xong một chương được, và khi nào gặp chỗ khó hiểu, thì tôi có thể đi tham khảo với một số người bên đây. Tiện đây, xin cho Ông biết là mùa hè này tôi sẽ ở Việt Nam với 10 sinh viên từ 13 tháng 6 đến 12 tháng 8 – vị trí là Nhà Khách Phạm Ngọc Thạch, Saigon – và sau đó tôi sẽ có mặt ở quận Cam từ ngày 12 đến ngày 17, tháng 8. Hy vọng việc sáng tác “Mười Bài Hương Ca” đang tiến triển tốt đẹp, thuận lợi. Dư âm của mấy bài đó vẫn trong tai tôi.
PHẠM DUY: VÌ TÔI LÀ TARZAN
Được sự đồng ý ngay của Phạm Duy, Eric tiếp tục dịch bộ sách, và Eric thường gửi email đến Phạm Duy khi có câu hỏi đối với Hồi Ký, và được Phạm Duy hồi âm rất nhanh – có khi chỉ cần đợi một hai tiếng đồng hồ thôi. Có lần Eric gửi một số câu hỏi đến ông, và trên email đó nói là “tôi biết rằng ông lúc này rất bận” với việc tổ chức một cái show – cho nên tôi thấy là ông không cần trả lời nhanh và tôi chờ đợi được, không sao. Nhưng chỉ sau một hai tiếng, tôi nhận được thư hồi âm của ông. Trên đó ông nói, “Đúng như anh nói, tôi hiện giờ bận lắm, nhưng tôi vẫn trả lời nhanh được, tại vì tôi là… Tarzan!”. Sau đó, trên một bức thư khác của ông có câu: “Anh thấy không? Tarzan** vẫn đong đưa trong rừng!”
PHẠM DUY: ĐỂ TÔI NHẢY THEO
Khi mới bắt đầu làm quen với Phạm Duy, tôi – Eric Henry hứa với ông là sẽ làm hai việc: lời hứa thứ nhất là tôi sẽ làm trọn việc phiên dịch bốn quyển Hồi Ký của ông, lời hứa thứ hai là sẽ tìm được một nhà xuất bản cho tác phẩm đó ở bên Mỹ.
Hơn một năm sau tôi đã hoàn tất việc phiên dịch, và bốn năm sau đó tôi đã tìm được một nhà xuất bản, là Southeast Asian Publications của Đại Học Cornell – sau này là Cornell University Press. Rồi tôi trở về Việt Nam để làm một bộ chú thích với hơn 1,500 footnotes về những nhân vật và địa danh trong Hồi Ký và để ký một hợp đồng với Phạm Duy và Đại Học Cornell.
Khi sắp ký hợp đồng, Phạm Duy chợt nhớ là ông đã có một hợp đồng khác với Công ty Văn hóa Phương Nam mà ông đã ký vài năm trước, nói là Phương Nam có quyền tuyệt đối buôn bán những tác phẩm của Phạm Duy – nhưng Hồi Ký không phải là một bài ca, chắc là ông có thể ký một hợp đồng với Đại học Cornell không sao.
Nhưng khi ông tham khảo với Phương Nam về việc này, thì ông khám phá ra là từ ngữ “tác phẩm” không chỉ bao gồm tác phẩm âm nhạc mà bao gồm tác phẩm văn chương nữa. Như vậy ông không có quyền ký hợp đồng với Cornell.
Điều này khiến – Eric Henry thất vọng nặng nề, và Eric viết thư cho Phạm Duy, nói nửa đùa nửa thật là “nếu không có cách xuất bản bản tiếng Anh cuốn Hồi Ký, thì tôi sau này sẽ chỉ có nước nhảy xuống sông tự tử thôi.” [Sic]
Trong thư hồi âm của Phạm Duy, ông nói là tôi không phải quá bận tâm về việc này. Chắc là trong tương lai sẽ có cách xuất bản Hồi Ký bằng tiếng Anh. Và ông đã đề nghị với tôi một vài kế hoạch để đạt đến mục đích đó.
Và cuối cùng Phạm Duy đã có một tái bút: “Khi nào ông quyết định nhảy xuống sông, xin cho tôi biết nhé – để tôi nhảy theo!” Điều ấy cũng cho thấy tính hài hước và thái độ luôn luôn lạc quan của nhạc sĩ Phạm Duy.
ERIC HENRY VÀ THE MEMOIRS OF PHẠM DUY
Và rồi những emails trao đổi tiếp theo giữa Eric và tôi đều có liên quan tới chặng đường gập ghềnh của bộ sách tiếng Anh The Memoirs of Phạm Duy cho đến nay vẫn chưa có thể xuất bản.
Email 1: Anh Bác sĩ Ngô Thế Vinh thân quý, [May 4, 2022]
Rất cảm ơn Anh quan tâm đến việc xuất bản sách phiên dịch Hồi Ký Phạm Duy. Lịch sử của các nỗ lực của tôi và các người “đồng minh” để xuất bản sách này giống như lịch sử của chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô – là một đoạn lịch sử vô cùng dài và vô cùng phức tạp. Bắt đầu từ đâu để kể cho rõ rành đây?
Một lần, Phạm Duy và tôi sắp ký hợp đồng với Cornell S.E. Asia Publications vào năm 2009 để xuất bản sách này – nhưng một công ty VN mang tên là Phương Nam không cho phép – tại vì Phạm Duy mấy năm trước đã ký một hợp đồng với Phương Nam và dành cho công ty ấy độc quyền xuất bản và phổ biến tất cả sản phẩm của Phạm Duy, gồm có cả sản phẩm thuộc lãnh vực văn chương (như Hồi Ký, chẳng hạn).
Về sau, vào năm 2012, vài tháng trước khi qua đời, Phạm Duy đã thực hiện được một sự thay đổi trên hợp đồng này, nói là độc quyền này của Phương Nam chỉ hữu hiệu trên đất Việt Nam mà thôi, chớ không hữu hiệu trên lãnh thổ của các nước khác. Biện pháp này đã giải quyết vấn đề với Phương Nam, nhưng chưa giải quyết được vấn đề với những người con của Phạm Duy – đặc biệt là với Duy Đức, người con trai út của Phạm Duy và tôi sẽ giải thích thêm vào buổi chiều ngày mai. Kính thư, Eric
Email 2: Anh Vinh thân quý, [May 5, 2022]
Ngoài Duy Đức ra, một nhân vật khác trong việc này là Tina Phạm, luật sư của gia đình Phạm Duy – tôi đã từng trao đổi thư từ với Tina từ năm 2009. Duy Đức lúc nào cũng làm theo ý kiến của Tina. Theo Tina, Duy Đức nên đòi hỏi nhà xuất bản Cornell bảo đảm là họ sẽ “indemnify” (bồi thường) gia đình Phạm Duy nếu họ bị công ty Phương Nam kiện. Nhưng Sarah Grossman, tổng biên tập của Cornell nói với tôi là Cornell không thể phát hành một văn kiện “bảo đảm” như thế. Sarah Grossman đã phát hành giùm tôi một văn kiện khác tuyên bố là Nxb Cornell sẽ tuyệt đối không tìm cách bán tác phẩm này trên đất Việt Nam. Nhưng Tina và Duy Đức chưa thỏa mãn với lời hứa chính thức này của Cornell.
Eric Henry sau đó đã liên lạc với Ban Giám Đốc Cty Phương Nam, và bây giờ Cty Phương Nam đã có giám đốc và phó giám đốc mới. Eric Henry đã nhận được thư hồi âm của Trịnh Hải Phương, phó giám đốc Phương Nam.
Kính chào ông Eric Henry,
Tôi là Trịnh Hải Phương, Phó Giám đốc công ty TNHH MTV Sách Phương Nam, có nhận được thư của ông Eric Henry đề nghị cho phép xuất bản bản tiếng Anh “Hồi ký nhạc sĩ Phạm Duy” ở Mỹ. Sau khi chúng tôi kiểm tra lại nội dung hợp đồng độc quyền khai thác các tác phẩm của nhạc sĩ Phạm Duy thì nhận ra công ty Phương Nam chỉ độc quyền khai thác trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Do đó công ty Phương Nam không giữ quyền khai thác tác phẩm của nhạc sĩ Phạm Duy ngoài lãnh thổ Việt Nam. Về đề nghị của ông thì thuộc quyền quyết định của gia đình nhạc sĩ Phạm Duy, những người thừa kế. Do đó ông có thể liên hệ với gia đình nhạc sĩ Phạm Duy để trao đổi.
Trân trọng, Trịnh Hải Phương
Nhận được thư này, tôi – Eric Henry gửi thư hồi âm như sau:
Kính gửi Ông Trịnh Hải Phương,
Và Ông Phương đã trả đáp như thế này:
Kính gởi ông Henry,
Cám ơn ông đã hồi âm, công ty Phương Nam chỉ góp một phần nhỏ trong việc phổ biến những giá trị nghệ thuật của nhạc sĩ Phạm Duy đến với người dân Việt Nam.
Cá nhân Phương Nam cũng rất cảm kích công việc ông đã làm cho nhạc sĩ Phạm Duy và hy vọng tập hồi ký được sớm xuất bản.
Trân trọng, Trịnh Hải Phương
Như vậy, Công ty Phương Nam không những không phản đối việc này, mà còn hy vọng là The Memoirs of Phạm Duy được sớm xuất bản.
Email 3: Anh Vinh thân quý, [May 7, 2022]
Cám ơn Anh gửi cho tôi thấy thiếp chúc mừng 1996, và bức thư 1995 mà đều mang bút tích của cố nhạc sĩ. Tôi sẽ tiếp tục cung cấp chi tiết về vụ tìm cách xuất bản The Memoirs of Phạm Duy. Cám ơn Anh liên lạc với Duy Minh, Duy Cường và Duy Đức. Tôi thấy là Duy Cường, giống như tôi, rất muốn thấy Cornell xuất bản The Memoirs. Thân ái, Eric
Email 4: Anh Vinh thân quý, [May 10, 2022]
Nay mai, tôi sẽ viết thêm một chút về vụ xuất bản “The Memoirs”. À, suýt quên: 3 bản hợp đồng mà tôi đã gửi cho Anh không chút nào “classified”. Muốn trích dẫn câu nào, xin tùy nghi! Chúc Anh thoải mái, yên tâm.
BA BỨC THƯ NGÔ THẾ VINH GỬI NHỮNG NGƯỜI CON NHẠC SĨ PHẠM DUY
Qua điện thoại, tôi liên lạc được với Phạm Duy Minh, người con trai thứ hai của nhạc sĩ Phạm Duy, đang sống nơi căn nhà của cha ở Midway City. Tôi có nói với Duy Minh về ý nghĩa to lớn của bộ Hồi Ký tiếng Anh đối với sự nghiệp của Bố Phạm Duy khi được University Press của một Đại Học danh giá là Cornell nhận xuất bản. Đây cũng là điều mà Phạm Duy khi còn sống đã rất mong ước.
Nhưng rồi qua Duy Minh – nay là con cả trong gia đình sau khi Duy Quang mất, tôi được biết là tất cả bảy anh em – cùng có quyền thừa kế giống nhau, nếu chưa có sự đồng thuận tuyệt đối 7/7 thì chưa thể có một hợp đồng với Đại Học Cornell. Và sau đó Duy Minh đã cho địa chỉ email của ba người: Duy Minh, Duy Cường và Duy Đức để tôi có thể trao đổi liên lạc.
Mặc dù đang rất bận rộn, nhưng do sự trân quý sự nghiệp âm nhạc / văn hóa của nhạc sĩ Phạm Duy, tôi đã không ngần ngại chia sẻ những ý nghĩ tâm huyết với Duy Minh, Duy Cường, Duy Đức và các Anh Em trong gia đình Phạm Duy, chỉ với mục đích duy nhất là làm sao vượt qua tất cả những trở ngại hiện nay để bộ Hồi Ký The Memoirs of Phạm Duy sớm được xuất bản.
Và sau đây là vắn tắt nội dung ba bức thư ngỏ, trong đó tôi xưng Anh với những người con của nhạc sĩ Phạm Duy, vì tất cả đều nhỏ tuổi hơn.
Tôi có nhắc, là mấy năm cuối đời Bố Phạm Duy đã quan tâm và kỳ vọng rất nhiều về bộ Hồi Ký bản tiếng Anh nếu được xuất bản ở Mỹ. Năm 2012, một năm trước khi Phạm Duy mất, trong một cuộc phỏng vấn Ông còn hãnh diện nhắc bộ sách The Memoirs of Phạm Duy. Đến nay 2022, 10 năm đã trôi qua, bản tiếng Anh ấy vẫn còn nằm ở Đại Học Cornell như một bản thảo. Và người dịch cuốn sách ấy là Tiến Sĩ Eric Henry, mà mấy Anh Em cũng đã từng gặp, Anh ấy năm nay cũng đã 79 tuổi rồi, với tuổi đã cao như vậy, nếu có vấn đề gì về sức khỏe đột ngột xảy ra cho Anh ấy, thì bao nhiêu công sức của Anh Eric Henry và của Bố Phạm Duy sẽ có nguy cơ bị rơi vào quên lãng! Sẽ rất đáng tiếc!
Tôi cũng nhắc tới điều mà Duy Minh và mấy Anh Em có thể e ngại là có vi phạm bản Hợp Đồng với Công ty Văn Hóa Phương Nam, nhưng điều đó không có — vì trước khi Bố Phạm Duy mất, bản hợp đồng với Phương Nam ghi rõ chỉ hiệu lực trong lãnh thổ Việt Nam!
Và như vậy, tiếng nói quyết định cuối cùng để The Memoirs of Phạm Duy có thể được Cornell University Press xuất bản là nơi 7 anh em – những người con thừa kế di sản Phạm Duy.
Tôi đã đề nghị Duy Minh, Duy Cường, Duy Đức và tất cả mấy Anh em trong gia đình nên cùng nhau bàn bạc để có một quyết định đúng vì sự nghiệp lâu dài của nhạc sĩ Phạm Duy. Vì thời gian sinh học thì không phải là bất tận. Tôi cũng nhắc cho Duy Minh, Duy Cường, và Duy Đức cùng các anh em trong gia đình nhạc sĩ Phạm Duy thêm một văn kiện từ Đại Học Cornell của “Sarah Grossman bảo đảm là Nxb Cornell sẽ tuyệt đối không bán The Memoirs of Phạm Duy trên đất Việt Nam.”
Cho dù ngay từ ban đầu, Nhạc sĩ Phạm Duy đã đồng thuận làm việc song hành với TS Eric Henry để hình thành được bộ sách tiếng Anh đồ sộ The Memoirs of Phạm Duy. Nhưng nay do Bố Phạm Duy đã mất, Nxb University Press Cornell vẫn cần thêm một giấy cho phép / Permission của những người con thừa kế di sản Phạm Duy, tôi cũng đã gửi kèm theo eMail thứ 3 này một mẫu bản thảo / draft lá thư cho phép ấy. Một thủ tục đơn giản nhưng quan trọng để Đại Học Cornell có thể khởi sự in bộ sách The Memoirs of Phạm Duy.
“Và rồi tôi có nhắc tới ngày 27.01.2023 sắp tới đây sẽ là Ngày Giỗ thứ 10 của nhạc sĩ Phạm Duy. Ngày Giỗ sắp tới ấy sẽ có thêm rất nhiều ý nghĩa nếu trên bàn thờ Bố Phạm Duy, thay vì chỉ có hoa trái nhang đèn, sẽ là một bộ sách The Memoirs of Phạm Duy, điều mà Anh Vinh biết chắc chắn là nhạc sĩ Phạm Duy đã rất ao ước lúc sinh thời!”
Một cuốn sách được xuất bản bởi một Đại Học danh tiếng như Cornell, sẽ được lưu trữ nơi các thư viện lớn trên thế giới, để từ đó có thể mở ra các cuộc nghiên cứu, đây không chỉ là niềm tự hào của Bố Phạm Duy mà còn niềm hãnh diện cho các thế hệ thứ 2 thứ 3 của gia đình nhạc sĩ Phạm Duy. Hãy không để dự án lớn này bị “đứt gánh giữa đường” để sau này chỉ còn lại là sự hối tiếc!
…
Bằng mọi giá, Duy Minh Duy Cường Duy Đức và Các Anh Em cần có nỗ lực “tạo thuận” cho giấc mơ của Bố Phạm Duy trở thành hiện thực, để rồi ra, Duy Minh Duy Cường Duy Đức và Các Em sẽ không phải thốt nên câu là “rất tiếc”…
Last but not least, Think Big nha mấy Anh Em!
…
Các emails này tôi đều có gửi cho Anh Eric được đọc, trong một email thứ ba không rút ngắn, có thêm đoạn này:
…
Thập niên 1970, khi anh Vinh họp một Hội nghị Sinh Viên Á Châu bên Nhật, anh Vinh thấy các bảng hiệu rầm rộ quảng cáo cho cuốn phim “Love Story” mô phỏng theo cuốn tiểu thuyết cùng tên của Erich Segal với câu catchphrase ấy là: “Love means never having to say you’re sorry / Yêu là không bao giờ phải nói câu là anh rất tiếc”. Anh Vinh lúc này thì nghĩ tới tình yêu thương của những đứa con đối với Bố Phạm Duy. Bằng mọi giá, Duy Minh và Các Em cần phải “tạo thuận” cho giấc mơ của Bố Phạm Duy trở thành hiện thực, để rồi ra, Duy Minh và Các Em sẽ không phải thốt nên một câu là “rất tiếc”.
Đó là những điều tâm huyết mà Anh Vinh muốn chia sẻ với Duy Minh, Duy Cường, Duy Đức và các Anh Em.
…
Eric Henry viết:
Anh Vinh thân quý, Thiệt ra, tôi rất thích draft email [3] mà Anh đã gửi cho tôi thấy ngày hôm qua — trong khi đọc, tôi thấy là cách viết của nó hùng biện đến độ “chuyển trời rung đất”, có đầy đủ sức lực khiến thần quỷ rơi lệ, tuy vậy, nếu Anh thấy là draft mới nhất sẽ hữu hiệu hơn, thì tôi cũng xin tuân theo. I trust your judgement.
Với 3 bức tâm thư được gửi đi và đã đến người nhận, nhưng rồi vẫn là sự im lặng của những người con Nhạc sĩ Phạm Duy. Không biết ngày mai của bộ Hồi Ký ấy sẽ ra sao: Que Sera, Sera… Và rồi trong sự tin cậy, Eric Henry sau đó cũng đã gửi tôi một copy bản thảo bộ sách The Memoirs of Phạm Duy như “Của tin gọi một chút này làm ghi.“ [Nguyễn Du]
MỘT CHÚT RIÊNG TƯ
Được Eric Henry tặng cuốn sách đồ sộ “Garden of Eloquence / Thuyết Uyển, của Lưu Hướng”, do Eric Henry dịch và giới thiệu, như một đáp lễ, qua Amazon tôi gửi tặng Eric bộ sách Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật và Văn Hóa I & II. Chỉ 3 ngày sau, tôi nhận được email hồi âm của Eric:
“Hoan hô! Amazon đúng hẹn rồi! Tôi vừa nhận được Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật và Văn Hóa, Tập 1 và Tập 2. Trong khi coi Tập 2, tôi hài lòng và quan tâm đặc biệt khi thấy là Anh đã chú ý nghệ thuật tạo hình trong những bài viết về họa sĩ Tạ Tỵ và hai điêu khắc gia Lê Ngọc Huệ và Mai Chửng. Tôi cũng muốn thấy những gì mà Anh đã viết về John Steinbeck. Tôi suốt nhiều năm hết sức đam mê ngôn ngữ đẹp do Steinbeck tạo ra trong tiểu thuyết của anh:Tortilla Flat. Có hai quyển sách của Anh, tôi bây giờ có cơ hội được giáo dục về nhiều khía cạnh của văn hóa Việt Nam. Đây là một niềm vui lớn!”
Rồi là một email tiếp theo:
“Giống như Anh, tôi suốt nhiều năm đã được cái may mắn trở nên khá thân mật với nhiều người bất thường tầm – vẫn chữ của Eric. Tiếc thay, họ đang dần dần trở thành người của trăm năm cũ rồi. Tôi nên bắt chước Anh và thử viết một tập “chân dung” để vinh danh họ.”
Và chẳng thể ngờ, cũng từ đây giữa hai chúng tôi nảy nở ra mối tương quan mới, với một dự án mới: TS Eric Henry dự định sẽ dịch sang tiếng Anh hơn một ngàn trang toàn bộ hai tập Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật và Văn Hóa của tôi. Tôi cũng hiểu rất rõ rằng, Eric cũng đang còn bận rộn với bao nhiêu công trình dở dang khác của anh.
Không lâu sau đó, tôi nhận được một chương sách dịch đầu tiên Chân Dung Mặc Đỗ của bộ sách tiếng Anh dự tính có nhan đề là: Creative World of the South Vietnam 1954 – 1975. Và rồi liên tiếp sau đó, cứ mỗi hai tuần hay mười ngày, tôi lại nhận được bản dịch một Chân Dung mới. Và hôm nay là Dương Nghiễm Mậu: “Forty Years of Dương Nghiễm Mậu And the “Autobiography of Nguyễn Du” cũng là Chân Dung thứ sáu vừa được Eric dịch xong, cùng với một lá thư của dịch giả Eric Henry, mà tôi muốn chia sẻ với bạn đọc, thay cho một kết từ của bài viết này.
Tôi bây giờ đang nghĩ về một bức thư mô tả các tác phẩm của Anh cho một nhà xuất bản. Chân Dung tập 1 tôi tạm gọi là: “The Creative World of South Vietnam, vol. 1: Eighteen Literary, Artistic, and Cultural Portraits”. Tôi đã làm một danh sách cho các nhà xuất bản để thấy nội dung là như thế nào (và sẽ làm một danh sách tương tự cho tập 2): Tôi bắt đầu suy nghĩ về việc liên lạc với các nhà xuất bản. Eric
…
Để hoàn tất bản dịch hơn một ngàn trang sách, rồi tìm được một nhà xuất bản Mỹ trong dòng chính như University Press, còn là cả một chặng đường dài gian truân, như qua một câu thơ Tản Đà: Hai vai gánh nặng con đường thời xa, và rồi chúng tôi cùng chúc cho nhau, giữ sao cho chân cứng đá mềm.
Cũng trong khoảng thời gian này, tôi đã hoàn tất thêm được 2 chân dung: một của nhạc sĩ Phạm Duy, một của Cựu chiến binh TS Eric Henry. Riêng với bài “Tình Quê hương trong Nhạc Phạm Duy và những Chân Dung”, có lẽ do sẵn lòng yêu quý Phạm Duy nên được Anh Eric tâm đắc nhất. Anh Eric viết: “Tôi thấy là các bài chân dung của anh, chân dung Phạm Duy có lẽ là tuyệt vời nhất về nội dung và chất lượng và phần then chốt của toàn bài đó là đoạn này: “Một Phạm Duy đã sống qua hai thế kỷ, ông cưu mang tất cả sức nặng của tấn thảm kịch đất nước bốn ngàn năm thăng trầm – cả tấn bi kịch của một con người Việt Nam, vừa lớn lao vừa nhỏ nhoi, vừa đẹp đẽ và cả xấu xí.” [trích dẫn eMail ngày 6 tháng 10, 2024]
Và cả hai chúng tôi cũng không bao giờ quên, là làm sao bằng mọi giá sớm xuất bản cho được bộ sách The Memoirs of Phạm Duy, một trong những ước mơ của nhạc sĩ Phạm Duy nay vẫn còn đang dang dở.
MỘT KẾT THÚC CÓ HẬU 20 NĂM SAU
Bất ngờ, ngày 13 tháng 10, 2024 tôi nhận được một eMail rất ngắn của anh Eric:
“Xin chia sẻ với Anh Vinh tin mừng về Hồi Ký Phạm Duy: Người dịch (tôi), người thừa kế Phạm Duy Đức, và Cornell University Press đã thành lập một hợp đồng có chữ ký của cả ba bên. Tôi thấy là một trong những yếu tố mà đã dẫn đến kết quả này là các nỗ lực hai năm trước của anh Vinh về việc này.” [trích email của TS Eric Henry, gửi Ngô Thế Vinh ngày 13/10/2024]
Cùng với tin vui trên, anh Eric gửi kèm theo một Bản Hợp Đồng mà trên văn bản tiếng Anh gọi là Biên Bản Thoả thuận, với sự đồng ý của Anh Eric Henry cho phép phổ biến Bản Hợp Đồng này.
BIÊN BẢN THỎA THUẬN
THỎA THUẬN NÀY được lập vào ngày 20 tháng 9 năm 2024 giữa Eric Henry, “dịch giả” và “người thừa kế” của Phạm Duy, do Phạm Duy Đức đại diện, và Cornell University Press, một bộ phận của Cornell University, được tổ chức và duy trì theo và theo luật của Tiểu bang New York, có văn phòng đặt tại
512 E. State Street
Ithaca, NY 14850
sau đây gọi là “Nhà xuất bản”, về Hồi ký của Phạm Duy gồm bốn tập được dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh, sau đây gọi là “Bản dịch”.
1. QUYỀN ĐƯỢC CẤP CỦA NGƯỜI THỪA KẾ
A. Người thừa kế cấp cho Dịch giả quyền dịch Tác phẩm sang tiếng Anh và chuẩn bị bản dịch để xuất bản, bao gồm việc chuẩn bị bất kỳ tài liệu quan trọng nào, bao gồm nhưng không giới hạn ở phần giới thiệu và chú thích, theo các hướng dẫn do Nhà xuất bản thiết lập.
B. Người thừa kế có quyền xem xét và phê duyệt Bản dịch trước khi xuất bản. Vì lợi ích đảm bảo Bản dịch được xuất bản nhanh chóng, Người thừa kế đồng ý chuyển cho Nhà xuất bản sự chấp thuận hoặc các chỉnh sửa của mình trong vòng hai mươi ngày làm việc kể từ khi nhận được Bản dịch và đồng ý thêm rằng Nhà xuất bản có quyền từ chối bất kỳ thay đổi nào, ngoại trừ việc sửa lỗi đánh máy hoặc lỗi thực tế.
C. Người thừa kế cấp cho Nhà xuất bản giấy phép độc quyền để xuất bản và bán từng tập Bản dịch trên toàn thế giới, ngoại trừ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hoặc cho các tổ chức, cơ quan hoặc công ty kinh doanh trực tuyến với tên miền .vn và đăng ký bản quyền Bản dịch dưới tên của Đại học Cornell.
Hình 8: Bản Hợp Đồng 4 trang giữa người thừa kế Phạm Duy Đức, Giám đốc Jane Bunker – Cornell University Press, và Dịch giả TS Eric Henry đã ký kết một bản hợp đồng vào ngày 20 tháng 9 năm 2024 cùng thoả thuận cho Cornell University Press xuất bản bản dịch tiếng Anh cuốn Hồi Ký của Phạm Duy / The Memoirs of Phạm Duy. Tài liệu TS Eric Henry gửi Ngô Thế Vinh
D. Người thừa kế đảm bảo rằng mình là chủ sở hữu duy nhất của Tác phẩm nói trên và có toàn quyền để thực hiện thỏa thuận này.
E. Di sản đảm bảo rằng Tác phẩm nói trên không vi phạm bất kỳ bản quyền nào hoặc vi phạm bất kỳ quyền sở hữu nào, không xâm phạm quyền riêng tư của bất kỳ người nào, không chứa bất kỳ vấn đề tai tiếng hoặc phỉ báng nào; và Người thừa kế sẽ bảo vệ, bồi thường và giữ cho Nhà xuất bản vô can trước mọi khiếu nại, vụ kiện, tổn thất, thiệt hại, và chi phí mà Nhà xuất bản có thể phải chịu nếu bất kỳ tòa án có thẩm quyền nào phán quyết ngược lại về bất kỳ khía cạnh nào.
2. SỰ CHO PHÉP CỦA DỊCH GIẢ
A. Dịch giả sẽ dịch trung thực và chính xác các tập tiếng Việt gốc của Tác phẩm sang tiếng Anh và sẽ cung cấp các tài liệu quan trọng bằng tiếng Anh, bao gồm nhưng không giới hạn ở phần giới thiệu và chú thích, nếu Nhà xuất bản cho là cần thiết.
B. Dịch giả đảm bảo rằng không đưa vào Bản dịch bất kỳ vấn đề nào có tính chất phản cảm hoặc phỉ báng không có trong Tác phẩm gốc. Dựa trên sự bảo đảm đó, Cornell University Press sẽ bảo vệ Dịch giả khỏi mọi vụ kiện chống lại hoặc phát sinh do anh ta gây ra với lý do Bản dịch có chứa bất kỳ điều gì phản cảm hoặc phỉ báng.
C. Dịch giả cấp cho Nhà xuất bản giấy phép độc quyền để xuất bản và bán Bản dịch trên toàn thế giới, ngoại trừ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc cho các tổ chức, cơ quan hoặc công ty kinh doanh trực tuyến với tên miền .vn, trong thời hạn hai mươi (20) năm kể từ ngày xuất bản lần đầu tiên ấn bản Bản dịch của Nhà xuất bản và đăng ký bản quyền bản dịch tiếng Anh dưới tên của Đại học Cornell.
D. Dịch giả đồng ý cung cấp, theo hình thức và nội dung mà Nhà xuất bản chấp thuận, các tài liệu điện tử bao gồm toàn bộ bản thảo của Bản dịch, cùng với bất kỳ tài liệu quan trọng nào, theo các hướng dẫn do Nhà xuất bản thiết lập và sẽ cung cấp các tài liệu đó sau cho mỗi tập:
Tập 1: Ngày 25 tháng 10 năm 2024
Tập 2: Ngày 25 tháng 04 năm 2025
Tập 3: Ngày 25 tháng 10 năm 2025
Tập 4: Ngày 25 tháng 04 năm 2026
E. Dịch giả đồng ý đọc, hiệu đính và trả lại ngay tất cả các bản in thử của Bản dịch. Nếu Dịch giả thực hiện hoặc gây ra bất kỳ thay đổi nào về kiểu chữ, ngoài những thay đổi do lỗi của máy in, vượt quá năm phần trăm chi phí biên soạn bản gốc, thì chi phí cho những thay đổi đó sẽ do Dịch giả gánh chịu. Vì lợi ích của việc đảm bảo Bản dịch được xuất bản nhanh chóng, Nhà xuất bản có quyền từ chối bất kỳ thay đổi nào, ngoại trừ việc sửa các lỗi đánh máy.
F. Vai trò của Dịch giả sẽ được ghi nhận trên trang bìa, trang bản quyền và trang nhan đề của tất cả các phiên bản của Bản dịch.
3. SỰ CẤP PHÉP CỦA NHÀ XUẤT BẢN
A. Nhà xuất bản có toàn quyền in, xuất bản và phân phối Bản dịch dưới dạng bản in và kỹ thuật số trên toàn thế giới, ngoại trừ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngoài ra, Nhà xuất bản sẽ không bán hoặc cấp phép bất kỳ phiên bản điện tử nào của Bản dịch cho các tổ chức, cơ quan hoặc công ty kinh doanh trực tuyến với tên miền .vn.
B. Nhà xuất bản đồng ý xuất bản từng tập của Bản dịch trong thời gian hợp lý kể từ khi nhận được các tài liệu điện tử đã chuẩn bị từ Dịch giả, với tập đầu tiên sẽ xuất hiện vào hoặc sau ngày 5 tháng 10 năm 2025. Nhà xuất bản sẽ tự chi trả và theo phong cách mà Nhà xuất bản cho là phù hợp nhất với việc bán Bản dịch. Mọi chi tiết về cách thức xuất bản, sản xuất và quảng bá, bao gồm giá bán, số lượng và địa điểm nhận bản sao miễn phí, sẽ do Nhà xuất bản quyết định. Tên ấn bản Bản dịch của Nhà xuất bản sẽ được Người thừa kế, Dịch giả và Nhà xuất bản chấp thuận chung. Tuy nhiên, nếu không thể đạt được thỏa thuận giữa ba bên kịp thời, Nhà xuất bản có quyền quyết định về tên mà không cần tham khảo thêm với Người thừa kế, Dịch giả.
C. Mỗi tập của Tác phẩm sẽ được phát hành dưới dạng tên theo dấu ấn Ấn phẩm Chương trình Đông Nam Á của Nhà xuất bản.
D. Nhà xuất bản sẽ phát hành đồng thời các phiên bản bìa cứng và bìa mềm của tác phẩm.
E. Nhà xuất bản sẽ đăng ký bản quyền Bản dịch dưới tên của Đại học Cornell.
F. Nhà xuất bản đồng ý đưa vào trang bản quyền của Bản dịch tiêu đề, dòng bản quyền và năm xuất bản của ấn bản gốc của Tác phẩm và/hoặc các bộ phận cấu thành của nó nếu Tác phẩm là biên soạn tài liệu đã xuất bản trước đó.
G. Nhà xuất bản không được đưa bất kỳ tài liệu mới nào vào văn bản gốc của Tác phẩm mà không có sự cho phép trước bằng văn bản của Người thừa kế, Dịch giả.
H. Nhà xuất bản có quyền đưa vào các tài liệu quan trọng, bao gồm nhưng không giới hạn ở phần giới thiệu và chú thích của Dịch giả để cung cấp bối cảnh quan trọng, lịch sử hoặc văn học cho Bản dịch. Có thể hiểu rằng bảo đảm của Người thừa kế trong §1D ở trên không mở rộng cho các tài liệu này.
4. TIỀN NHƯỢNG QUYỀN
Người thừa kế, Dịch giả đồng ý từ bỏ tiền bản quyền đối với tất cả các phiên bản in và kỹ thuật số của Bản dịch do Nhà xuất bản phát hành hoặc cấp phép.
5. QUYỀN
Dịch giả đồng ý tự chi trả để có được các quyền cần thiết để in lại các đoạn trích và/ hoặc hình minh họa sẽ được đưa vào Bản dịch hoặc trong bất kỳ bản tóm tắt nào của Bản dịch hoặc trong bất kỳ phiên bản được cấp phép nào khác của Bản dịch; Dịch giả sẽ chuyển các quyền đó bằng văn bản cho Nhà xuất bản cùng với bản thảo cuối cùng.
6. MỤC LỤC
Bất kỳ mục lục nào của Bản dịch mà Nhà xuất bản yêu cầu sẽ do Dịch giả cung cấp hoặc nếu không phải do Dịch giả cung cấp thì do Dịch giả phải chi trả.
7. QUYỀN PHỤ
Người thừa kế, Dịch giả cấp cho Nhà xuất bản toàn quyền và độc quyền để hoạt động như đại lý của họ trong việc thực hiện các quyền và giấy phép sau đây đối với Bản dịch trên toàn thế giới, ngoại trừ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc cho các tổ chức, cơ quan hoặc công ty kinh doanh trực tuyến với tên miền .vn: in lại, toàn bộ hoặc một phần; câu lạc bộ sách; xuất bản nhiều kỳ; sao chép cơ học hoặc điện tử; và quay phim vi mô và các kỹ thuật tương tự.
Bất kỳ quyền và giấy phép nào không được nêu trong điều khoản này, cũng như tất cả các quyền và giấy phép đối với Bản dịch hiện đang tồn tại hoặc sẽ tồn tại trong tương lai, đều do Người thừa kế, Dịch giả giữ lại.
8. SỬ DỤNG TÁC PHẨM ĐỂ QUẢNG BÁ
Nhà xuất bản có thể miễn phí xuất bản hoặc cho phép người khác xuất bản hoặc phát sóng trên đài phát thanh, truyền hình hoặc các phương tiện điện tử khác trên toàn thế giới, ngoại trừ tại Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc cho các tổ chức, cơ quan hoặc công ty kinh doanh trực tuyến với tên miền .vn, các trích đoạn ngắn như vậy từ Bản dịch, đặc biệt là để quảng bá và đánh giá tài liệu, theo đánh giá của Nhà xuất bản sẽ có lợi cho việc bán Bản dịch. Nhà xuất bản cũng có thể miễn phí cấp phép xuất bản Bản dịch bằng chữ nổi Braille hoặc các hình thức khác cho người khiếm thị.
9. CÁC BẢN SAO CHO NGƯỜI THỪA KẾ VÀ DỊCH GIẢ
Nhà xuất bản sẽ cung cấp miễn phí cho cả Người thừa kế, Dịch giả năm (5) bản sao của ấn bản bìa mềm đầu tiên của Bản dịch. Di sản và Người dịch có thể mua thêm các bản sao của Bản dịch từ Nhà xuất bản tại bất kỳ thời điểm nào trong tương lai khi đang được in theo lịch trình giảm giá sau đây từ giá niêm yết của Hoa Kỳ.
1 đến 9 bản — 40 phần trăm
10 đến 19 bản — 45 phần trăm
20 đến 99 bản — 50 phần trăm
100+ bản — 55 phần trăm
10. CHẤM DỨT THỎA THUẬN
Bất kỳ lúc nào sau 20 (hai mươi) năm kể từ ngày xuất bản lần đầu tiên tập cuối cùng của Bản dịch theo thỏa thuận này, Nhà xuất bản hoặc Dịch giả đều có quyền hủy bỏ thỏa thuận này bằng cách thông báo bằng văn bản cho bên kia hoặc đại diện của họ, thông qua dịch vụ cá nhân hoặc qua thư, đã đăng ký hoặc cách khác. Bản quyền của Bản dịch nói trên sau đó sẽ được chuyển giao cho Dịch giả và Nhà xuất bản sẽ thực hiện việc chuyển nhượng cần thiết theo yêu cầu. Sau khi hủy bỏ như vậy, Nhà xuất bản đồng ý chuyển giao cho Người thừa kế, Dịch giả tất cả các quyền được cấp trong đây, ngoại trừ bất kỳ giấy phép nào trước đây do Nhà xuất bản cấp sẽ tiếp tục có hiệu lực theo các điều khoản của các giấy phép đó.
11. SỰ TRÌ HOÃN KHÔNG THỂ TRÁNH KHỎI
Không bên nào chịu trách nhiệm về sự chậm trễ hoặc không thực hiện do chiến tranh, bạo loạn, đình công, hỏa hoạn, lũ lụt, cái gọi là “thiên tai”, hạn chế của chính phủ, thiếu vật liệu, gián đoạn dịch vụ sản xuất hoặc các trường hợp khác nằm ngoài tầm kiểm soát của họ.
12. CHUYỂN NHƯỢNG THỎA THUẬN
Theo sự đồng thuận chung, thỏa thuận này có thể được chuyển nhượng toàn bộ, bởi bất kỳ bên nào và bên được chuyển nhượng sẽ có tất cả các quyền và biện pháp khắc phục của bên ban đầu, nhưng không bên nào có quyền chuyển nhượng bất kỳ phần lợi ích nào trong đây.
13. THỜI HẠN CỦA THỎA THUẬN
Thỏa thuận này sẽ áp dụng và ràng buộc người thi hành di chúc, người quản lý, người kế nhiệm và người được chuyển nhượng của các bên tương ứng và sẽ được diễn giải và ý nghĩa của nó được hiểu theo luật của Tiểu bang New York. Tất cả các bên tại đây đồng ý rằng bất kỳ tranh chấp hoặc bất đồng nào phát sinh theo bất kỳ điều khoản nào của nó sẽ được giải quyết tại tòa án thuộc thẩm quyền của Tiểu bang New York hoặc Hoa Kỳ.
14. CÁC BẢN CHO ĐỐI TÁC
Thỏa thuận này có thể được thực hiện trong một hoặc nhiều bản đối tác, mỗi bản đối tác sẽ được coi là bản gốc, nhưng tất cả các bản đối tác đó khi kết hợp lại sẽ tạo thành một và cùng một văn bản.
NGƯỜI THỪA KẾ
Phạm Duy Đức
NXB ĐẠI HỌC CORNELL
Jane Bunker, Giám đốc
DỊCH GIẢ
Eric Henry
Thông tin tiểu sử cơ bản. Phạm Duy (1921 – 2013); tên thật là Phạm Duy Cẩn, vừa là nhạc sĩ sáng tác nhiều nhất của Việt Nam vừa là một trong những nhân vật công chúng được nhắc đến nhiều nhất trong lịch sử gần đây của Việt Nam. Sinh ra tại Hà Nội, bên Hồ Gươm, ông là con út trong số năm người con của nhà báo, nhà cải cách và nhà văn đầu thế kỷ 20 Phạm Duy Tốn. Người con trai cả trong gia đình này, Phạm Duy Khiêm, là một nhà ngoại giao và nhà văn lỗi lạc, và một người con trai khác, Phạm Duy Nhượng, vừa là nhạc sĩ vừa là nhà giáo dục.
Phạm Duy đã viết bài hát đầu tiên của mình, “Cô Hái Mơ,” vào năm 1942, khi vẫn còn là một ca sĩ và nghệ sĩ guitar nghiệp dư. Ông bắt đầu sự nghiệp chuyên nghiệp của mình vào đầu năm 1944 khi ông gia nhập đoàn opera Đức Huy Charlot Miều. Ông đã lưu diễn khắp mọi miền đất nước trong hai năm với đoàn kịch này, giải trí cho khán giả với tư cách là ca sĩ hát nhạc tân nhạc hoặc “nhạc mới” giữa các tiết mục, đồng thời làm quen với âm nhạc dân gian của mọi vùng mà ông đi qua.
Năm 1946, ông tham gia kháng chiến Việt Minh, đầu tiên là chiến sĩ du kích và sau đó là thành viên của nhiều đơn vị nghệ thuật có nhiệm vụ giải trí và truyền cảm hứng cho những người lính. Trong thời gian này, ông đã viết những bài hát yêu nước, chẳng hạn như “Xuất Quân”, những bài hát theo phong cách dân gian, chẳng hạn như “Ru Con” và những bài hát khao khát lãng mạn, chẳng hạn như “Bên Cầu Biên Giới”. Tất cả những bài hát này đều trở nên nổi tiếng ngay lập tức. Cũng trong thời gian này, ông đã gặp và kết hôn với ca sĩ kiêm diễn viên Thái Hằng (là chị của nhạc sĩ Phạm Đình Chương và ca sĩ Thái Thanh), họ có tám người con, sáu người trong số họ đã trở thành nhạc sĩ theo đúng nghĩa của họ.
Ông rời Việt Minh vào cuối năm 1950 để thoát khỏi sự kiểm soát về mặt ý thức hệ, và định cư tại Sài Gòn vào đầu năm 1951. Trong hai mươi bốn năm tiếp theo, ông thống trị bối cảnh âm nhạc ở miền Nam. Ông đã thực hiện một số chuyến đi đến các quốc gia, đầu tiên là Pháp, để mở rộng kiến thức âm nhạc, và sau đó là các nước châu Á khác và đến Hoa Kỳ để tạo mối quan hệ và quảng bá âm nhạc của mình. Ông là người có công trong việc thành lập nhóm Hợp Ca Thăng Long, có lẽ là nhóm biểu diễn chuyên nghiệp nhất trong số nhiều nhóm biểu diễn xuất hiện ở miền Nam trong thời đại này. Ông xuất sắc trong cả việc viết lời bài hát và soạn nhạc cho những bài thơ do người khác viết. Ông tích cực tham gia làm phim vào những năm 50 và 60; và trong những năm 60 đã có nhiều nỗ lực để nâng cao nhận thức của quần chúng về âm nhạc dân gian. Vào cuối những năm 1960, ông đi đầu trong phong trào Du Ca, mục đích của phong trào này là chống lại chủ trương thương mại trong âm nhạc đại chúng bằng cách thu hút sinh viên đại học vào việc sáng tác và biểu diễn các bài hát. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông đã cung cấp hàng trăm bài hát nước ngoài cho khán giả Việt Nam bằng cách cung cấp cho họ lời tiếng Việt.
Năm 1975, chỉ vài ngày trước khi miền Nam sụp đổ, ông di tản sang Hoa Kỳ và sau hai năm ở Florida, gia đình ông chuyển về định cư tại Midway City, California, bên cạnh Little Saigon. Ông là tác giả của khoảng hai chục bản trường ca về nhiều chủ đề khác nhau, mỗi bản đều gắn liền theo một cách nào đó với văn hóa, lịch sử hoặc số phận của Việt Nam. Hai trong số những bài ca nổi tiếng nhất là Con Đường Cái Quan và Mẹ Việt Nam. Sau năm 1975, ông đã viết hàng chục bài hát phản ánh trải nghiệm của người Việt tị nạn. Ông cũng đã viết các bản trường ca mới, bao gồm một nhạc cảnh gồm năm bài thơ của Hoàng Cầm, một bối cảnh gồm hai mươi bài thơ trong tù của Nguyễn Chí Thiện, một bối cảnh khác gồm chín bài thơ của nhà thơ theo đạo Thiên chúa Hàn Mặc Tử và một bộ mười bài hát về chủ đề Thiền, lời bài hát do chính ông viết. Vào cuối những năm 1990, ông bắt đầu viết minh họa Kiều sử dụng các trích đoạn từ tác phẩm thơ nổi tiếng đầu thế kỷ XIX của thi hào Nguyễn Du. Trong suốt giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1999, ông đã đi lưu diễn các nước với tư cách là một diễn giả, ca sĩ và nghệ sĩ guitar để quảng bá cho các bản trường ca của mình.
Năm 2000, sau cái chết của vợ, ông bắt đầu thực hiện các chuyến trở về Việt Nam, nơi mà mặc dù âm nhạc của ông đã chính thức bị cấm từ năm 1975, ông vẫn được cả những người dân thường và các nhân vật chính phủ nồng nhiệt chào đón. Vào tháng 5 năm 2005, ông đã trở về Việt Nam vĩnh viễn và nhà nước bắt đầu từng bước dỡ bỏ các hạn chế đối với việc biểu diễn âm nhạc của ông. Khi đó đã ở độ tuổi cuối tám mươi, ông vẫn tiếp tục sáng tác các bài hát, giúp điều hành một quán cà phê âm nhạc ở Sài Gòn và đi lưu diễn xuất hiện trước khán giả đến nghe nhạc của ông. Vào tháng 1 năm 2013, ông bị suy nhược cơ thể do suy tim và qua đời vào ngày 27 cùng tháng 1, 2013.
Ngoài bộ hồi ký này, ông còn là tác giả của khoảng tám trăm bài hát, khoảng ba trăm bộ lời tiếng Việt cho các bài hát ngoại quốc, nhiều bài báo, sách phương pháp chơi guitar, một cuốn sách về lịch sử ban đầu của nhạc đại chúng ở Việt Nam, một cuốn sách về những người ông từng quen biết và một số cuốn sách về nhạc dân gian Việt Nam, bao gồm cả sách tiếng Anh, Musics of Vietnam, Southern Illinois University Press, 1975.
Phạm Duy – Nhạc sĩ
Việt Nam có rất nhiều thể loại nhạc. Các thể loại chính bao gồm nhạc cung đình, nhạc được giới trí thức ưa chuộng, một số thể loại opera truyền thống, khoảng một chục thể loại nhạc dân gian vùng miền, nhiều thể loại thơ-ngữ điệu bán nhạc, nhạc của hơn sáu mươi sắc tộc thiểu số và tân nhạc, hay “nhạc mới”, dùng để chỉ nhạc đại chúng chịu ảnh hưởng của phương Tây. Những người mới nghe nhạc này sẽ nhận thấy ngay rằng các ca sĩ Việt Nam sử dụng thành thạo một loại nhạc cụ vi âm khiến giọng hát của họ nghe khá khác biệt so với Trung Quốc, Hàn Quốc hoặc Nhật Bản. Người nghe cũng có thể nhận thấy sự hiện diện của âm thanh buồn bã, nhung lụa của một nhạc cụ đặc trưng của Việt Nam: đàn bầu hoặc đàn một dây, tạo ra một thanh âm rung được các ca sĩ sử dụng.
Phạm Duy là một trong những người sáng lập ra tân nhạc, ra đời vào cuối những năm 1930, được thúc đẩy bởi sự gia tăng tiếp cận qua đài phát thanh với nhạc đại chúng của Pháp và quốc tế. Kể từ khi ra đời, tân nhạc đã trở thành trung tâm của những nỗ lực tự chuyển đổi của người Việt Nam, khi họ tìm cách thoát khỏi ách thống trị của chế độ phong kiến và chủ nghĩa thực dân và tạo ra một loại hiện đại phù hợp và có lợi cho quốc gia của họ. Không có vấn đề nào liên quan đến bản sắc dân tộc mà không được phản ánh hoặc thảo luận trong lời bài hát đại chúng của Việt Nam.
Tân nhạc tuân theo nhiều thông lệ giống nhau và xuất hiện ở nhiều địa điểm giống như nhạc đại chúng ở các quốc gia khác. Ví dụ, những người viết giai điệu và biên soạn lời ca thường là những người khác nhau, vì vậy một bài hát nhất định sẽ xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Thông thường, người viết giai điệu là tác giả của cả lời bài hát và giai điệu; ở Việt Nam, hầu hết những người viết giai điệu theo nghĩa này đều là nhà thơ cũng như nhạc sĩ. Mặc dù thuật ngữ tân nhạc ám chỉ đến âm nhạc không tồn tại nếu không có ví dụ hoặc sự kích thích của nhạc đại chúng phương Tây, nhưng thuật ngữ này thực sự bao gồm rất nhiều phong cách khác nhau. Một ví dụ nhất định về tân nhạc có thể nghe hoàn toàn không phải của phương Tây, hoặc có thể nghe hoàn toàn không phải của châu Á, hoặc có thể nằm ở một điểm nào đó giữa hai thái cực đó (đây là trường hợp trong phần lớn các trường hợp). Không có ranh giới xác định nào phân chia tân nhạc với âm nhạc truyền thống. Những người viết nhạc của nó được tự do ám chỉ đến các phong cách truyền thống nhiều như họ muốn. Tương tự như vậy, không có ranh giới xác định nào trong tân nhạc phân chia nghiêm túc với phù phiếm, hoặc thương mại với nghệ thuật. Phần lớn lãnh thổ âm nhạc được bao phủ bởi thuật ngữ tân nhạc được người Việt Nam coi là có giá trị nghệ thuật và các bài hát và lời bài hát liên quan là chủ đề của nhiều cuộc thảo luận về mặt thẩm mỹ. Ví dụ, nhiều người Việt Nam đam mê tân nhạc tuyên bố thích nhạc “tiền chiến”. Đối với người Việt Nam, “tiền chiến” có nghĩa là trước năm 1946, năm bắt đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Tuy nhiên, trong thực tế, thuật ngữ này được sử dụng rất lỏng lẻo; những người yêu nhạc có xu hướng mô tả bất kỳ bài hát nào mà họ thích là “tiền chiến”, bất kể năm nào bài hát đó ra đời.
Một thuật ngữ khác thường gặp trong các cuộc thảo luận về tân nhạc là “nhạc vàng”. Theo nghĩa hẹp, thuật ngữ này ám chỉ đến thứ nhạc thương mại, buồn bã, theo công thức, được hát trong các quán cà phê để xoa dịu những dây thần kinh mệt mỏi của những khách hàng đang khát khao sự lãng quên. Thể loại nhạc này đã vô cùng phổ biến ở Việt Nam kể từ khi tân nhạc ra đời. Nó cũng là một đối tượng tấn công cụ thể của các nhà tư tưởng cộng sản Việt Nam, những người cho rằng nhạc vàng là thứ nhạc của sự thất bại, một loại nhạc chắc chắn sẽ khiến người nghe suy đồi về mặt đạo đức và chắc chắn sẽ khiến các quốc gia mà nó thịnh hành phải đi đến sự hủy diệt. Chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã nỗ lực mạnh mẽ để đàn áp nhạc vàng, và thay vào đó là thúc đẩy thứ mà mọi người gọi là “nhạc đỏ”, về bản chất có nghĩa là “nhạc đồng chí vui vẻ”. Nhưng than ôi, nhạc đỏ thiếu sức hấp dẫn sâu sắc đối với người nghe nhạc vàng, và ít người quan tâm đến nó, ngoại trừ một số ít người mà nó có thể gợi lại những ký ức hoài niệm về những ngày tháng trong quân ngũ.
Một thể loại nhạc thường được nhắc đến khác là nhạc quê hương, hay “nhạc bản địa”. Thể loại này đề cập đến những bài hát chịu ảnh hưởng của dân gian gợi nhớ đến vùng nông thôn, hoặc một vùng đất cụ thể nào đó gợi nhớ đến người sáng tác. Một tập hợp con quan trọng của thể loại này bao gồm các bài hát được viết theo phong cách miền Trung, đặc trưng bởi giai điệu trưởng trôi chảy với nhịp điệu chậm. Nhiều ví dụ hay nhất về tân nhạc thuộc thể loại nhạc quê hương.
Tất nhiên, nhiều tân nhạc, đặc biệt là ngày nay, bao gồm nhạc thương mại không có giá trị nghệ thuật. Thể loại nhạc này thường được gọi là “nhạc trẻ” hoặc “nhạc thời trang”. Bất kỳ bài hát nào có nhịp điệu techno làm nền và không có đặc điểm nào của Việt Nam có thể nhận dạng được đều có thể thuộc thể loại này. Điều tốt nhất tôi có thể nói về những bài hát thuộc thể loại này là chúng tự hủy hoại—chúng không bao giờ tồn tại quá vài năm.
Phạm Duy là người sáng tác nhiều nhất và có phong cách đa dạng nhất trong số tất cả các nhạc sĩ tân nhạc, đã sáng tác hơn tám trăm bài hát trong suốt sự nghiệp lâu dài của mình. Phong cách và tâm trạng của ông rất đa dạng đến nỗi phải mất nhiều tháng nghe nhạc của ông, tác giả hiện tại mới có thể tự tin nói rằng một giai điệu cụ thể nào đó là “đặc trưng của Phạm Duy”.
Đối với Phạm Duy, sáng tác là một hình thức khám phá và tái tạo thế giới; do đó, ông trải qua các giai đoạn; khi ông khám phá xong một lĩnh vực kinh nghiệm, ông lại chuyển sang lĩnh vực khác. Do đó, Phạm Duy có nhiều ý nghĩa đối với nhiều người; mọi người đều có một Phạm Duy mà họ đặc biệt ngưỡng mộ hoặc đặc biệt ghét bỏ. Ví dụ, một số người sẽ nói rằng họ đặc biệt gắn bó với những bài hát ông viết khi tham gia Kháng chiến, và sẽ tỏ ra thờ ơ với mọi thứ ông viết sau đó. Những người khác sẽ nói rằng những bài hát tình ca của ông trong những năm 50 và 60 là những phần đáng nhớ nhất trong tác phẩm của ông. Những người khác nói rằng những bài hát mà ông tôn vinh bản sắc dân tộc Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành nên những cá nhân yêu nước của họ. Những người khác đặc biệt bị thu hút bởi bối cảnh ông tạo ra từ tác phẩm của một số nhà thơ cụ thể, hoặc những bối cảnh trong các bài hát của ông thể hiện khát vọng siêu việt. Những người khác trân trọng nhất những bài hát phản chiến mà ông viết vào những năm 60 và đầu những năm 70. Những người khác nữa lại bị thu hút bởi tác phẩm của ông trong lĩnh vực dân ca, đôi khi viết lại những phiên bản cải biên của các giai điệu truyền thống, và đôi khi sáng tác những phiên bản mở rộng của những câu thơ dân gian nông thôn, sau đó ông phổ nhạc. Đối với những người khác, nhiều bài hát sau năm 1975 của ông về trải nghiệm tị nạn đại diện cho đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của ông. Tóm lại, dù mọi người nói về ông bằng lời khen ngợi hay chê bai, ông vẫn là chủ đề trò chuyện yêu thích. Điều này sẽ không xảy ra nếu những bài hát của ông không đáng nhớ.
Phạm Duy – Người viết hồi ký
Một nhà làm phim tài liệu Việt Nam nổi tiếng mà tôi quen biết đã nói với tôi cách đây vài năm tại Hà Nội rằng gần đây ông đã nghĩ đến việc viết một bộ hồi ký. Sự nghiệp của riêng ông, không kém gì Phạm Duy, đã gắn liền mật thiết với số phận hiện đại của dân tộc ông – nhưng khi ông đọc bốn tập Hồi ký của Phạm Duy, ông cảm thấy một cảm giác thất bại – làm sao ông có thể hy vọng sánh được với khả năng hồi tưởng vô tận về con người, địa điểm và sự kiện của Phạm Duy? Hay sự hăng hái và sắc sảo không ngừng nghỉ mà ông trình bày chúng? Vào thời điểm tôi có cuộc trò chuyện này, mọi người ở Hà Nội đều đang đọc cuốn sách – nó đã bị cấm, nhưng thành phố vẫn tràn ngập những bản sao tự sản xuất. Những người đọc cảm thấy rằng nó đã nói lên sự thật về các sự kiện lịch sử và thể hiện quan điểm mà chính họ đã giữ trong suốt cuộc đời mình, nhưng chưa bao giờ dám bày tỏ.
Trên thực tế, không có bộ hồi ký Việt Nam nào khác mà tôi biết cung cấp cho người đọc một lịch sử xã hội và chính trị được ghi chép phong phú hơn về Việt Nam trong thế kỷ vừa qua. Không có điều gì thoát khỏi sự chú ý của tác giả, không có điều gì mà ông không quan tâm một cách thông minh. Vì vậy, nếu bạn muốn hiểu bất cứ điều gì về sự phát triển của thể thao, thời trang, công nghệ, điện ảnh, nói chuyện đường phố, mỹ thuật, văn học, báo chí và vô số lĩnh vực hoạt động khác của Việt Nam, bạn không thể làm gì tốt hơn là coi những Hồi ký này là nơi đầu tiên để tìm đến.
Xuyên suốt những hồi ức này là một tín điều được duy trì một cách thách thức và kiên trì từ đầu đến cuối, một tín điều có thể được diễn đạt là “Không có gì quý giá hơn đối với cá nhân hay quốc gia hơn là sự tự do cá nhân hoàn toàn”. Tác giả tự định nghĩa mình là một người đàn ông hiện đại tinh túy, phản đối mọi hạn chế phong kiến, dù là loại truyền thống, loại xã hội chủ nghĩa hiện đại, loại ý thức hệ cánh hữu hay bất kỳ loại nào khác. Như ông nhận xét trong lời bạt của toàn bộ tác phẩm, “Tôi là một người không bao giờ ngoan ngoãn nghe lời người khác, mà thay vào đó, tôi tự do rong ruổi trên những con đường tự do do chính tôi lựa chọn”.
Theo lập trường cơ bản này, ông nhấn mạnh ở mọi nơi rằng lòng yêu nước, là bản chất của ông, không thể bao gồm lòng trung thành với một chế độ cụ thể nào đó hoặc một tập hợp các lý thuyết chính trị xã hội cụ thể nào đó; nó chỉ có thể bao gồm lòng tận tụy với ngôn ngữ, phong tục, bối cảnh và văn hóa mà người ta đã trưởng thành. Một điều đi kèm với lập trường này là việc chia cắt Việt Nam thành các khối cộng sản và cộng hòa luôn là điều đáng nguyền rủa đối với ông; và, trong giới hạn khả năng của mình, ông luôn cư xử như thể không có sự chia cắt nào như vậy. Ví dụ, khi chọn thơ để sử dụng làm lời bài hát, ông không bao giờ chú ý đến khuynh hướng chính trị của các nhà thơ – đối với ông, tác giả của những bài thơ ông chọn chỉ đơn giản là các nhà thơ Việt Nam, không phải là nhà thơ chế độ miền Bắc hay chế độ miền Nam.
Một điều đi kèm khác của lập trường này là quyết tâm trình bày một phiên bản thực tế, thay vì một phiên bản chỉnh sửa, về cuộc sống riêng tư của ông – do đó, nhiều mối tình của ông, cả trước và sau khi kết hôn, đều xuất hiện trong Hồi ký. Ông chỉ xin lỗi một cách vừa phải về chúng; thực tế, ông thường cảm thấy những tập phim này rất quan trọng đối với cuộc đời ông với tư cách là một nhạc sĩ. Những chi tiết khác mà hầu hết những người viết hồi ký Việt Nam sẽ cố gắng che giấu cũng xuất hiện. Ví dụ, ông thừa nhận rằng thành công của ông với tư cách là một ca sĩ lưu diễn của “nhạc mới” vào năm 1944 đã khiến ông hoàn toàn quên mất mẹ mình và những thành viên khác trong gia đình, những người mà ông chưa bao giờ viết một lá thư nào; và ông thừa nhận rằng ông yêu thích sự thoải mái và giải trí của giai cấp tư sản ngay cả khi, với tư cách là một nhà cách mạng tận tụy, ông đã phục vụ Việt Minh ở những vùng được giải phóng trong cuộc Kháng chiến.
Hầu hết người Việt Nam không chỉ không chia sẻ lòng tận tụy cấp tiến của Phạm Duy đối với tự do cá nhân, mà còn gặp khó khăn ngay cả khi tưởng tượng ra một lòng tận tụy như vậy có thể liên quan đến điều gì – nó trái ngược với mọi quan niệm truyền thống về hành vi đúng đắn – và do đó, họ gặp khó khăn khi chấp nhận ông là một nhân vật của công chúng và là một người viết hồi ký. Phạm Duy làm phiền lòng những người đồng hương của mình; nói một cách ngắn gọn, ông quá hiện đại, quá phi phong kiến. Hầu như mọi người đều coi ông là người đáng ngờ về mặt chính trị. Những người cộng sản ghét ông vào những năm 50, 60 và 70 vì ông rời khỏi Việt Minh. Các đồng nghiệp của ông ở Nam Việt Nam không tin tưởng ông vì ông từng làm việc cho Việt Minh.
Nhiều người tị nạn California đồng hương của ông, những người đã cáo buộc ông là không có nguyên tắc chính trị, đã cảm thấy bị phản bội vào năm 2005, khi ông quyết định trở về Việt Nam. Rất nhiều người dường như cũng hơi khó chịu khi Phạm Duy không chỉ là người tự quảng bá bản thân một cách nhiệt thành trong suốt cuộc đời mình, mà thậm chí còn không xấu hổ về điều này – các hoạt động của ông về mặt này được mô tả đầy đủ trong Hồi ký; chúng là một phần của sự hiện đại của ông. Nhưng đối với nhiều người Việt Nam, việc tự quảng bá như vậy có vẻ không phù hợp, không theo đạo Khổng giáo. Và tất nhiên, nhiều người Việt Nam cũng bị sốc bởi những tiết lộ về tình dục trong Hồi ký – tuy nhiên, một số người đánh giá cao thực tế rằng đây, cuối cùng, là một tập hồi ký của một nhân vật Việt Nam mà tác giả không tìm cách miêu tả bản thân mình theo một cách hoàn hảo giả tạo.
Tôi không có ý ám chỉ rằng Phạm Duy là người đàn ông hiện đại duy nhất ở Việt Nam; ông có đồng minh và bạn tâm giao; và cuối cùng những người này sẽ trở thành đa số. Hồi ký có thể hiện đang bị cấm ở Việt Nam; tuy nhiên, sẽ đến ngày chúng trở thành một phần trong chương trình giảng dạy thông thường của học sinh Việt Nam; vì chúng kể câu chuyện về sự trỗi dậy của Việt Nam vào thời hiện đại một cách đầy đủ và chân thực hơn bất kỳ tài liệu đương đại nào khác.
Tín điều cơ bản của Hồi ký này “Không có gì quý giá hơn đối với cá nhân hoặc quốc gia hơn là tự do cá nhân hoàn toàn,” có thể được coi là một sự đối trọng hữu ích với một số tín điều khác thiêng liêng đối với cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh, như chúng ta liên tục được nhắc nhở, đã nói rằng “Không có gì quý hơn độc lập và tự do” – nhưng mọi người đều cảm thấy rằng “độc lập và tự do” được đề cập ở đây mang tính chất quốc gia hoặc tập thể, và không liên quan gì đến cuộc sống của cá nhân. Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hứa hẹn với công dân của mình “Độc lập, Tự do và Hạnh phúc”, nhưng nhiều người Việt Nam đang nhận ra rằng những điều khoản này sẽ vẫn không có nội dung cho đến khi chúng có thể được hiểu theo nghĩa cá nhân.
Ghi chú về bản dịch
Bốn tập Hồi ký của Phạm Duy ban đầu có tiêu đề hơi khác so với tiêu đề mà tôi đã đặt cho chúng trong bản tiếng Anh này. Tập một, “Coming of Age in the North” có tiêu đề gốc là “Thời Thơ Ấu—Vào Đời”. Tập hai, “The Resistance”, có tiêu đề gốc là “Thời Cách Mạng Kháng Chiến”. Tập ba, “The Period of Division”, có tiêu đề gốc là “Thời Phân Chia Quốc Cộng”. Tập bốn, “My Sojourn Abroad” có tiêu đề gốc là “Thời Hải Ngoại”.
Ba cuốn đầu tiên của Hồi ký được viết trong giai đoạn từ năm 1989 đến năm 1991 và được tác giả tự xuất bản theo sự cho phép của P.D.C. Musical Productions. Cuốn thứ tư được viết vào khoảng năm 2001 và được xuất bản điện tử trên trang web của Phạm Duy, nơi cũng có phiên bản điện tử của ba cuốn đầu tiên.
Bản thảo đầu tiên của bản dịch này được hoàn thành vào năm 2005 sau mười ba tháng làm việc liên tục, tôi đã sử dụng cả phiên bản giấy và điện tử của Sách 1 và 3, và phiên bản điện tử của Sách 2 và 4. Tôi đã có được các đề xuất và chỉnh sửa của Phạm Duy, vì ông đã xem xét từng chương của bản dịch khi chúng được biên soạn, thường trả lời trong vòng một hoặc hai giờ cho các câu hỏi qua email của tôi. Một kho lưu trữ ảnh và bản ghi âm khổng lồ của Phạm Duy cũng rất hữu ích đối với tôi.
Theo đề xuất của một số độc giả, tôi đã thêm vào bản dịch này một tính năng không có trong bản gốc: một tập hợp các chú thích, trong khả năng có thể, cung cấp thông tin cơ bản về hàng trăm người, bài hát, sách và bài thơ được tác giả đề cập. Một lần nữa, chính Phạm Duy đã làm rất nhiều để cải thiện các chú thích và tôi hy vọng rằng những chú thích này sẽ hữu ích, không chỉ đối với độc giả tiếng Anh mà còn đối với độc giả Việt Nam, những người trước đây chỉ có thể tiếp cận văn bản gốc, không có chú thích. Tôi cũng đã cung cấp tiêu đề cho từng chương để thuận tiện cho độc giả.
Nhìn chung, bản dịch này bám sát bản gốc rất chặt chẽ; tuy nhiên, có một số bản tóm tắt đã được thực hiện ở một số chỗ. Đôi khi chỉ để tránh lặp lại. Ở những chỗ khác, các bài viết do những người khác viết về Phạm Duy được tóm tắt thay vì trình bày đầy đủ, vì tôi cảm thấy rằng những đoạn văn bản này cản trở dòng chảy tiếp theo của câu chuyện và hơn nữa, ở một bình diện văn học kém hơn so với phần còn lại của cuốn sách.
Văn bản gốc chứa đầy lời bài hát được trích dẫn. Phần lớn tài liệu này được giữ lại ở đây, nhưng ở một số nơi, lời bài hát được trích dẫn chỉ được đưa ra một phần, hoặc được tóm tắt hoặc diễn giải thay vì được dịch. Lời bài hát thường nghịch lại việc chuyển đổi mạch lạc sang tiếng Anh, vì vậy tôi cảm thấy rằng một mô tả hoặc tóm tắt sẽ cung cấp một bản trình bày trung thực hơn về lời bài hát hơn là một nỗ lực tái tạo tiếng Anh.
Đối với tôi, có vẻ như trong một số chương, số lượng lời bài hát được trích dẫn làm chậm câu chuyện của tác giả, vì vậy ở đây một lần nữa, một số bản tóm tắt có vẻ là mong muốn. Nếu bất kỳ độc giả nào muốn biết thêm về bất kỳ lời bài hát nào bị lược bỏ hoặc tóm tắt, xin họ có thể liên hệ với tôi thông qua nhà xuất bản. Eric Henry, Dịch Giả
Ngô Thế Vinh
California, Little Saigon
08/08/2022 – 08/11/2024
___________
THAM KHẢO
1/ “Phạm Duy and Modern Vietnamese History.” Eric Henry. Southeastern Review of Asian Studies 27 (2005), pp. 89 – 105.
2/ The Memoirs of Phạm Duy. Translated from the Vietnamese by Eric Henry. To be published by Cornell University Press.
3/ The curious memoirs of the Vietnamese composer Phạm Duy. John C. Schafer. Journal of Southeast Asia Studies. Feb 2012. The National University of Singapore, 2012.
4/ Việt Nam – Những Ngày Trở Lại của Cựu Chiến Binh Eric Henry. Ngô Thế Vinh
https://vietecologypress.blogspot.com/2022/08/viet-nam-nhung-ngay-tro-lai-cua-cuu.html
5/ Tình Quê Hương Trong Nhạc Phạm Duy Và Những Chân Dung. Ngô Thế Vinh
https://vietecologypress.blogspot.com/2022/07/tinh-que-huong-trong-nhac-pham-duy-va.html
No comments:
Post a Comment